tam cang ngũ thường là gì
Từ Bi, Tam Qui, Ngũ Giới thuộc Phật giáo. Cảm Ứng, Tam Nguơn, Ngũ Hành thuộc Tiên giáo. Trung Thứ, Tam Cang, Ngũ Thường thuộc Nho giáo. Ðài là nơi Tam giáo hiệp nhất, là tòa nhà đại đồng qui tụ tất cả các tôn giáo mà xưa kia đã từ nơi đây tung ra các nơi.
TAM-CANG và NGŨ-THƯỜNG A) TAM CANG là quân thần cang, phụ tử cang và phu thê cang. 1. Đạo quân thần: Theo đà tiến hóa của thời đại mà hiện giờ chữ quân thần phải đổi lại là chữ quốc dân. Muốn cho quốc dân được phú cường, chúng ta phải làm cho mặt kinh tế được dồi dào, chánh trị được khéo léo và mỗi công dân đều biết tự trọng lịch sử nước nhà.
Những năm qua, Đảng và Nhà nước luôn dành sự quan tâm lớn cho sự nghiệp giáo dục và đào tạo, đặc biệt là các chính sách đầu tư, đảm bảo tỷ lệ chi cho giáo dục từ 20% trở lên trong tổng ngân sách nhà nước. Cùng với sự tăng trưởng không ngừng của kinh tế xã hội
Ðề yếu: Ðạo Nho có Tam-cang Ngũ-thường, đạo Phật có Tam-quy Ngũ-giới. Về năm giới, nếu so sánh đôi bên, thì không sát sanh là nhân, không trộm cướp là nghĩa, không tà dâm là lễ, không nói dối là tín, không uống rượu là trí.
Bấy giờ Kim Cang Thủ Bồ Tát Ma Ha Tát lại tuyên nói Diệu Lạc Kim Cang Bí Mật Đại Mãn Noa La Tụng là: "Phần tướng Nội Ngoại Mạn Noã La Đều y Pháp Đại Mạn Noã La Ở giữa y Pháp an Bổn Tôn. Ấy là tượng Kim Cang Tát Đoả. Hoặc dùng điêu khắc, hoặc đúc tạo
Còn một bên là nền văn hóa Khổng, Lão Trung Quốc dạy con người sống trong Tam Cang, Ngũ Thường, tạo thành những giai cấp xã hội phong kiến, theo luật Âm Dương Ngũ Hành nên trở thành những nếp sống mê tín, dị đoan, lạc hậu, v.v… làm tai hại cho loài người rất lớn.
Vay Tiền Online Cấp Tốc 24 24. l>GIANG DAO CHON NGON 22 GIẢNG ĐẠO CHƠN NGÔN MỤC LỤC BÀI SỐ 22 GIẢI-THÍCH TAM-CANG NGŨ-THƯỜNG Tam-Cang Ngũ-Thường tức là điều-mục của Nho-giáo, lại là một vai tuồng đặc biệt của nam nhân, cần phải thật hành cho vẹn toàn bổn-phận. Đang xem Tam cang ngũ thường là gì Tam-Cang là Quân-thần, Phụ-tử, Phu-phụ. Vua tôi, cha con, chồng vợ; Chúa ở với tôi có đạo-đức, thì tôi thờ chúa mới tận kỳ trung; Cha ở với con từ-thiện, thì con thờ cha chí hiếu; Chồng giữ trọn nghĩa với vợ, thì vợ phải thủ tiết thờ chồng ấy là Tam-cang tức là đời có ạo. Còn đời thất chánh vô nhơn đạo, thì phong-hóa suy tồi nhân tâm bất cổ, đạo-đức sai dời lòng người chẳng giống xưa. Luật Tam-cang chẳng giữ, phép Ngũ-thường không noi, Vua vô đạo, tôi bất trung, cha chẳng lành con chẳng thảo, chồng không giữ nghĩa với vợ, vợ lại thất tiết với chồng. Anh em không thuận hòa, xóm riềng chẳng có tình thương-yêu liên-lạc cùng nhau, luân-lý cang thường đều nghiêng đổ, tức là đời Hạ-nguơn cuối cùng mạt kiếp. Ngũ-thường là Nhơn, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín. 1- NHƠN là trắc ẩn chi tâm, ái vật chi lý, bất sát bất hại thể háo sanh chi đại-đức. Lấy lòng nhơn phóng xá cho loài vật, đặng phần sống sanh hóa như loài người, mới có lòng từ-bi bác-ái gọi là nhơn….Chữ nhơn là nhân đứng bằng chữ nhị, nhân là người, nhị là hai. Làm người phải giữ cho đặng trọn hai phần, một là đối với Trời ất, thì phải noi theo phép công-bình thiêng-liêng của Tạo-hóa, thuận tùng Thiên-lý. Hai là đối với người, vật, thì phải giữ lòng đạo-đức, thương người mến vật, trợ cấp phò nguy mới trọn lòng nhơn …Theo Thánh-giáo của ức CHÍ-TÔNNhơn là đầu hết các hành tàng, Cũng bởi vì nhơn dân hóa quan. Dân trí có nhơn nhà nước trị, Nước nhà nhơn thiệt một nhơn thì thành Thần; niệm nhơn thì thành Thánh; hành nhơn thì thành Tiên; đắc nhơn thành Phật2- NGHĨA là Nhứt thảo nhứt mộc, các hữu kỳ chủ, cả thảy mọi vật đều có chủ, cấm chẳng đặng gian tham ham muốn của người, mà làm cho thất nghĩa là toàn ngã hiệp thành, chữ toàn là trọn, chữ ngã là ta, hiệp lại thành chữ nghĩa, làm người giữ trọn cùng ta thì nên nghĩa, còn chẳng trọn cùng ta là thất nghĩa. Muốn thật hành chữ nghĩa, thì phải noi theo câu “Kỷ sở bất dục vật thi ư nhơn”. Những việc gì ta chẳng muốn ai làm cho ta chịu đau khổ thảm sầu thì ta không nên đem các điều ấy mà làm cho người khác, mới là trọn nghĩa bao hàm rất lớn thay. Như là nghĩa cha con, nghĩa thầy trò, nghĩa chồng vợ, nghĩa anh em cốt nhục đồng-bào, nghĩa bằng hữu chi giao, ấy là ngũ-luân chi đạo. Mọi sự đều phải có nghĩa, thì mới đủ tư-cách làm người cao nhơn và chữ nghĩa thường đi đôi với nhau, cho nên trong Kinh Sám Hối có hai câu dạy rằngLàm người nhơn-nghĩa xử xong, Rủi cho gặp lúc long-đong chẳng sờn. Làm người nhơn-nghĩa giữ tròn, Muôn năm bóng khuất tiếng còn bay trong truyện sử đời nhà Châu, vua Võ điếu dân phạt Trụ, dĩ danh Nhơn-Nghĩa, mà thâu phục cả tâm-lý của tám trăm chư-hầu qui thuận nhà Châu cho đến các bậc Tiên-gia Xiển-giáo, cũng đồng ủng hộ Võ-Vương, thuận thọ thiên-mạng diệt giả phò chơn, thì rõ biết cái năng lực danh-từ nhơn-nghĩa tinh-vi hiệu quả là thế nay ta muốn biết trước những người cầm quyền bĩnh cán trong một nước nào, có thể lập thành sự-nghiệp phục hưng quốc-thể được trường tồn, hay là làm cho dân tâm ly tán, vận nước khuynh nguy, thì chỉ xem sở hành của vị ấy có nhơn-nghĩa hay không mà quyết đoán …3- LỄ là yết dục dưỡng tinh, cấm không đặng tà tình hoa nguyệt, làm cho hao tổn nguơn-tinh biến ra thất lễ. Lễ là khuôn viên trọng thể của con người, làm người sở dĩ linh hơn muôn vật, chỉ nhờ biết giữ lễ mà đặng phần tôn quí hơn. Nhơn sanh vạn-vật tối linh, lễ giả Thiên ịa chi tự cũ chữ lễ là để chế sửa phong-tục, nhân quần xã-hội, quan hôn, tang tế, Triều-đình Hương-đảng, cả thảy đều dùng lễ mà làm cho đời được tận thiện tận thêm Con Gai 14 Tuoi Tu Suong – Phim Sex Anh Em Gai 14 Tuoi Tu Suong, HdLễ là thiết yếu để giữ chừng mực cho mọi sự hành-vi của con người…. Con người có thể sống cao thượng, phẩm giá được tôn quí là do nơi biết giữ lễ, còn bị tội lỗi làm mất tư-cách con người, thiên-hạ chê bai khinh bỉ nhục-nhã, là do nơi thất lễ rộng lớn bao la, xem bài giải-thích về Kinh Lễ mới rõ TRÍ là tồn tâm dưỡng tánh, chẳng nên dùng tửu nhục ẩm thực quá độ, rối loạn trí não tâm thần, hoại hư tạng-phủ biến ra người mất trí là tri trên bạch dưới, chữ tri là biết, chữ bạch là trắng, làm người phải biết giữ lòng thanh bạch, chẳng cho nhiễm vào một điểm nhơ ố vạy tà, mới gọi là hạng người trí-thức….“Trí giã nhạo thủy”. Bậc trí-thức tánh lưu thông như nước, mọi sự đều rõ biết, cư xử việc gì cũng được phân-minh, chẳng khi nào phạm vào Chữ TÍN là bằng hữu chỉ ư tín, thỉ chung như nhứt trước sau như một, không thay lòng đổi dạ, dầu hứa hẹn một việc nhỏ cũng chẳng sai lời, mới gọi là người chơn-chất biết thủ TÍN là nhơn bằng chữ ngôn, nhơn là người ngôn là lời nói. Làm người mọi điều thốt ra, phải giữ sự chơn thật thì mới đủ lòng tín-nhiệm của quần chúng, nếu việc không mà nói có, việc có lại nói không, thì chẳng còn ai tín-dụng. Người ở đời mà thất tín thì chẳng làm gì nên danh phận. Nên có câu “Nhơn vô tín như xa vô luân”. Người mà không thành tín thì cũng như chiếc xe không có bánh, chẳng hề cử-động được có câu “Nhơn vô tín bất lập”. Người không giữ tròn câu tín nghĩa thì chẳng lập nên danh-thể trường tồn, mà cũng không đứng vững trên mặt Tam-cang Ngũ-thường, tức là nền tảng của Nho-Tông, thuộc về phần Nhơn-đạo để giáo-hóa nhơn sanh cho đủ tư-cách làm người cao thượng, nếu mỗi người thật hành y theo qui-điều kể trên cho châu đáo, thì đời sẽ được mỹ-tục thuần-phong, tức là đời thái-bình an-cư của Khổng-giáo cũng như qui-giới của Phật-giáo, Tiên-giáo. Ngũ-thường, ngũ-giới, ngũ-hành kỳ trung hiệp đồng nhứt lý….ệ-tử nhà Phật, nhà Tiên muốn đi tới Bồng-ảo, Niết-Bàn thì tức nhiên phải đi qua đò nhà Nho ạo cũng như hành bộ khách, nền Nho ví tợ chiếc đò qua…. Ấy là “Dục tu Tiên-đạo, tiên tu Nhơn-đạo, Nhơn-đạo bất tu, Tiên-đạo viễn hỉ”….Luận về đạo-lý rất quảng đại bao la, không thể giải cho cùng tận, chỉ do theo trình-độ của mọi người, hiểu biết đặng bao nhiêu lược biến ra để làm phương-châm thật-hành cho được vẹn toàn, cũng là điều bổ thêm Top 20 Món Ăn Ngon Và Cách Làm Món Ăn Đơn Giản Mà Ngon Mà Đơn GiảnXem tiếp bài số 23 Chánh-trị của Khổng-Giáo Back to top button GIẢNG ĐẠO CHƠN NGÔN Soạn giả THÁI ĐẾN THANH. Ấn bản năm Tân Hợi 1971. In tại nhà in LÊ THÀNH Long Hoa. Hội Thánh Giữ Bản Quyền.
Theo truyền thống xưa của Trung Quốc thì phụ nữ phải tuân theo Tam tòng tứ đức. Thì đàn ông Trung Quốc cũng phải tuân theo Tam cương ngũ thường. Vậy bạn đã biết gì về Tam cương ngũ thường? Hôm nay hãy cùng ChineseRd tìm hiểu về câu thành ngữ này nhé!Nội dung chính Show Tam cương ngũ thường là gì?Tam cương là gì?Ý nghĩa của tam cươngNgũ thường là gì?Ý nghĩa của Tam cương ngũ thườngHọc tiếng Trung cùng ChineseRdPhương thức liên hệ vớiChineseRdVideo liên quan Tam cương ngũ thường là gì?Tam cương ngũ thường là một thành ngữ tiêu biểu của Trung QuốcTam cương ngũ thường là một thành ngữ tiêu biểu của Trung Quốc. Thành ngữ này có tên tiếng Trung là 三纲五常/sāngāngwǔcháng. Để hiểu rõ hơn tam cương ngũ thường là gì chúng ta cùng đi phân tích nhé Tam cương là gì?Tam cương còn có tên tiếng Trung là 三纲 /sāngāng/三 Tam hay còn gọi là ba纲 Cương là giềng mối hay còn gọi là đầu mốiTừ này mang hàm nghĩa để chỉ khuôn phép, kỷ cương. Giềng mối ở đây là những mối chính để liên kết với các mối khác. Hay có thể hiểu theo nghĩa bóng là mối quan hệ chủ đạo. Từ mối quan hệ này có thể liên kết với nhiều mối quan hệ thể bạn quan tâmKhi nào là World Pride 2023Dấu hiệu mặt trăng cho ngày 6 tháng 1 năm 2023 là gì?Ngày 16 tháng 1 năm 2023 là cung hoàng đạo gì?Đâu là nơi tốt nhất cho nhật thực 2023?Nhiệt độ nước biến là bao nhiêu?Ý nghĩa của tam cươngHiểu đơn giản thì tam cương dùng để chỉ những mối quan hệ chính trong xã hội. Theo tam cương thì người trên phải có trách nhiệm yêu thương, chăm sóc, bao bọc người dưới. Ngược lại thì người dưới cũng phải có trách nhiệm yêu thương, hiếu thuận với người trên. Theo người xưa thì nếu gia đình nào cũng giữ được mối quan hệ như vậy. Thì gia đình đó sẽ hạnh phúc, êm ấm qua đó thì đất nước cũng trở nên yên bình, ổn thường là gì?năm điều mà mỗi người phải có khi sống ở đờiNgũ thường có tên tiếng Trung là 五常 wǔcháng. Với chữ ngũ là năm và chữ thường là hằng có, thường có trong đời sống hằng ngày. Ngũ thường chính là năm điều mà mỗi người cần phải có khi ở đờiNhân 仁 Nhân ở đây được lấy trong từ nhân hậu . Là có lòng yêu thương, quý mến đối với vạn vật. Theo ngũ hành thì Nhân ứng với MộcNghĩa 義 Nghĩa ở đây được lấy trong từ chính nghĩa . Là phải cư xử, đối xử với mọi người theo công bình, lẽ phải. Trong ngũ hành, nghĩa ứng với 禮 Lễ ở đây được lấy trong từ lễ phép . Từ lễ ở đây mang tính tôn trọng, hào nhã khi giao tiếp, ứng xử đối với mọi người. Trong ngũ hành, Lễ ứng với 智 Trí ở đây được lấy trong từ trí tuệ. Là sự thông hiểu lý lẽ, phân biệt thiện ác, đúng sai. Trong ngũ hành thì Trí ứng với 信 Tín ở đây được lấy trong từ uy tín . LÀ phải giữ đúng lời hứa. Trong ngũ hành thì Tín ứng với nghĩa của Tam cương ngũ thườngTrong xã hội phong kiến xưa, khi còn chưa có pháp luật như bây giờ. Xã hội vẫn được vận hành theo Tam cương ngũ thường. Cũng có thể nói thành ngữ này có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc duy trì ổn định và bình an của một đất rằng xã hội ngày nay đã có pháp luật. Nhưng không thể nói rằng Tam cương ngũ thường không có ý nghĩa gì. Ngày nay, sự răn dạy bằng đạo đức cũng không thể thiếu chính vì vậy thành ngữ này vẫn có những giá trị quan trọng nhất định. Bởi trong xã hội ngày càng phức tạp như hiện nay. Giữa người với người càng cần có sự tin tưởng nhau nhất nghĩa, lễ, trí tín chúng ta thử thiếu một trong năm đức tính kể trên. Nhất là chữ Tín sẽ khiến mọi người không tôn trọng chúng ta và cũng không có ai muốn giao tiếp với chúng ta nghĩa của Tam cương ngũ thường trong đời sốngTrên đây là những gì mà ChineseRd giải nghĩa thành ngữ Tam cương ngũ thường. Hi vọng bài viết này sẽ giúp bạn hiểu rõ hơn về một thành ngữ khá phổ biến này!Xem thêm Biết người biết mặt nhưng không biết lòngHọc tiếng Trung cùng ChineseRdĐể tìm hiểu kỹ hơn vềdu họcTrung Quốc cũng như học tiếng Trung, rất vui được chào đón các bạn gia nhập đại gia Việt Nam cam kết cung cấp một nền tảng học tiếng Trung Quốc trực tuyến mới, chất lượng, dễ dàng sử dụng cho người Việt học tiếng Trung Quốc và toàn thức liên hệ vớiChineseRdĐịa chỉ Tầng 3 tòa nhà Sao Mai, 19 Lê Văn Lương, Thanh Xuân, Hà điện thoại 02456789520 Hà Nội Việt Namhoặc 0906340177 Hà Nội Việt Namhoặc 86 755-82559237 Thâm Quyến Trung QuốcEmailEmailFacebook liên quan
cương ngũ thường là gì ? Tam cương ngũ thường là chuẩn mực đạo đức, đời sống chính trị, xã hội được Khổng Tử đặt ra và nam giới phải theo, bên cạnh tam tòng tứ đức mà nữ giới phải theo. Khổng tử đã nói rằng một xã hội mà luôn duy trì được tam cương ngũ thường là một xã hội bình an , hạnh phúc. Không thể phủ nhận rằng nền văn hóa Trung Hoa nói chung và nho giáo nói riêng có sự ảnh hưởng nhất định đến Việt Nam. Do đó “tam cương ngũ thường” không có gì là lạ lẫm với người Việt Nam máu đỏ da vàng chúng ta thế nhưng ý nghĩa sâu xa của nó là gì thì không phải ai cũng nắm rõ và hiểu được .Cùng nhau tìm hiểu tìm hiểu về chuẩn mực đời sống “tam cương ngũ thường” trong xã hội xưa nhé . Đức KHỔNG TỬ 551 TCN-479 TCN đã dạy làm trai phải tôn trọng - Tam Cương - quân thần cương bổn phận đối với Vua. Nay, hết chế độ quân chủ rồi, ta thế bằng bổn phận đối với Tổ quốc. - phụ tử cương bổn phận đối với Cha / đạo cha con. - phu thê cương bổn phận đối với vợ / đạo vợ chồng. - Ngũ Thường nhân, nghĩa, lễ, trí, tín. Ta thử thiếu một trong năm chữ vừa kể, nhứt là chữ tín, xem còn ai muốn giao thiệp với mình nữa không. Đến nay, sau hơn 2500 năm, bốn chữ " Tam Cương Ngũ Thường " vẫn bất di, bất dịch. Người dân Trung quốc vẫn còn phải nhìn nhận Đức Khổng Tử là " vạn thế sư biểu ", đang có chiến dịch dựng tượng Khổng Tử ở nhiều nơi trên đất nước của họ cương ngũ thường trong tiếng Trung là gì ? Tam cương ngũ thường 三纲五常 / sāngāngwǔcháng / Tam cương 三纲 sāngāng Tam là ba 三/ sān, cương là giềng mối hay còn gọi là giềng mối 纲/gāng.. đầu mối chính nói khái quát; dùng để chỉ khuôn phép, kỉ cương .Giềng mối chính là mối chính liên kết với các mối khác, hiểu theo nghĩa bóng là mối quan hệ chủ đạo, dựa vào nó mà điều chỉnh các mối quan hệ khác. Tóm lại , đơn giản tam cương là chỉ ba mối quan hệ chính trong xã hội + Quân thần cương 君为臣纲 jūn wéi chén gāng bổn phận đối với Vua. Nay, hết chế độ quân chủ rồi, ta thế bằng bổn phận đối với Tổ quốc. + Phụ tử cương 父为子纲 fù wéi zǐ gāng phận đối với Cha / đạo cha con. + Phu thê cương 夫为妻纲 fū wéi qī gāng bổn phận đối với vợ / đạo vợ chồng. Ngũ thường 五常/ wǔcháng/. Ngũ 五/ wǔ là năm, thường 常/ cháng là thường thường, thường ngày , thường xuyên xuất hiện trong cuộc sống hàng ngày của con người. Như vậy ngũ thường chính là năm điều thường xuất hiện trong cuộc sống con người, nó hình thành nên đạo đức mà mỗi người nên có. Đó là + Nhân 人 rén nhân là người, học cách thành nhân . Trước khi muốn thành tài thì phải thành người. Để trở thành người tốt có ích cho xã hội thì phải có cái tâm, cái tâm biết yêu thương muôn loài muôn người. “có tâm ắt có tầm “ + Lễ 礼 yì lễ trong lễ độ, lễ phép. “Lễ” chỉ dạy con người cách đối nhân xử thế sao cho hòa hợp, hòa nhã , tôn trọng và hòa nhã với mọi người. + Nghĩa 义 lǐ chính nghĩa, sự công tâm, công bằng . Chữ nghĩa ở đây trong ngũ thường dạy con người phải cư xử sao cho công bằng, theo lẽ phải, theo cái tình cái lý. + Trí 智 zhì trí trong trí tuệ, trí khôn. Trí thể hiện sự sáng suốt, minh bạch. Người có trí là người giữ được sự sáng suốt, biết cách nhìn nhận, phân biệt đúng sai, phải trái, thiện ác. + Tín 信 xìn chính là chữ tín, sự tin tưởng, tín nhiệm, niềm tin. Tín trong ngũ thường dạy con người ta làm người phải biết giữ chữ tín, nó lời phải giữ lấy lời. Như vậy , tam cương và ngũ thường là lẽ đạo đức mà nam giới phải theo , đó chính là chuẩn mực của nam giới trong xã hội ngày xưa . cương ngũ thường , tam tòng tứ đức Bên cạnh cuẩn mực sống Tam cương ngũ thường của nam giới , Tam tòng tứ đức chính là lẽ đạo đức mà nữ giới phải theo. Khổng Tử cho rằng người trong xã hội giữ được tam cương, ngũ thường, tam tòng, tứ đức thì xã hội được an bình, hạnh phúc . Tam tòng tam là ba , tòng là theo. Tam tòng là ba điều người phụ nữ phải tuân theo, gồm "tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử". 1. Tại gia tòng phụ người phụ nữ khi còn ở nhà phải theo cha. 2. Xuất giá tòng phu lúc lấy chồng phải theo chồng. 3. Phu tử tòng tử nếu chồng qua đời phải theo con. Tứ đức tứ là bốn; đức là tính tốt. Tứ đức là bốn tính nết tốt người phụ nữ phải có, là công - dung - ngôn - hạnh. 1. Công làm giỏi, khéo léo trong việc làm. 2. Dung phải trao chuốc sắc đẹp hòa nhã trong sắc diện. 3. Ngôn dịu dàng, mềm mại trong lời nói. 4. Hạnh nhu mì trong tính nết. - Người phụ nữ có đủ đức tính trên , sẽ xây dựng gia đình thành một tổ ấm cho nhiều thế hệ, là nơi nương tựa cho trẻ thơ, là trạm dừng chân nghỉ ngơi cho trai tráng, là thành lũy cuối cùng của tuổi già. - Đức hạnh của người phụ nữ hiện đại ngày nay đang bị thoái hóa, biến tướng theo chiều hướng tiêu cực . Vì một số bạn trẻ , đặc biệt là tuổi teen lầm tưởng rằng phải biết uống rượu, đánh nhau, đi qua đêm, bỏ học, chửi thề và yêu nhiều, mới ngầu , mới là "người phụ nữ lý tưởng". - Các nhà tâm lý học đã nhận định rằng, một trong những nguyên nhân dẫn đến giảm đức hạnh của các bạn gái là cha mẹ chưa quan tâm con cái đúng cách và đúng mực. Đâu ai biết được rằng khi đã lập gia đình thì mọi buồn vui, hạnh phúc, đau khổ, thành công hay thất bại đều do cái đức hạnh của người phụ nữ quyết định cả. - Về trinh tiết, trong đạo vợ chồng vấn đề tình dục là điều không thể thiếu, nhưng người phụ nữ phải biết giữ gìn trinh tiết cho đến khi về nhà chồng. Giới trẻ hiện đại ngày nay , được du nhập văn hóa từ phương Tây quan chuyện giữ gìn trinh tiết không còn quan trọng nữa , cho yêu là hiến dâng, thậm chí khi chưa yêu, chỉ mới quen nhau cũng vẫn quan hệ. - Ngày nay, có nhiều bạn gái thích sống thử trước hôn nhân. Một số bạn rất ngây thơ trong chuyện này Ai sẽ là người chịu thiệt thòi? Nạn nhân chính là người con gái. Con trai vốn ích kỷ, họ chỉ muốn được thỏa mãn nhu cầu xác thịt, nhưng khi cưới vợ, họ lại muốn người con gái ấy hoàn toàn trinh nguyên. - Đến một ngày nào đó, bạn sẽ gặp một người mà bạn thật sự yêu thương, liệu bạn có đủ dũng cảm để đối mặt với người ấy và liệu họ có chấp nhận khi bạn không còn trong trắng? Hay họ luôn nghi ngờ sự nhẹ dạ của bạn "Rủi để khách tóm thâu tiết hạnh, Tránh không qua nhẹ tánh nghi ngờ.” [Nữ Trung Tùng Phận] - Các bạn gái Việt Nam trong thời đại ngày nay, đúng là có rất nhiều cám dỗ và cạm bẫy, nhưng các bạn hãy tự bảo vệ chính mình, đừng tự hủy hoại bản thân và cuộc sống sau này. Tiêu chuẩn tối cao của cái đẹp muôn thuở vẫn là sự hài hòa giữa sắc đẹp thân thể và nhân cách. 4. Lời bài hát Tam Cang Ngũ Thường
[ad_1] Tam cương ngũ thường 三纲五常 sāngāngwǔcháng là chuẩn mực đạo đức, đời sống chính trị, xã hội được Khổng Tử đặt ra và nam giới phải theo, bên cạnh tam tòng tứ đức mà nữ giới phải theo. Khổng tử đã nói rằng một xã hội mà luôn duy trì được tam cương ngũ thường là một xã hội bình an, hạnh phúc. Bạn đang xem Tam cang ngũ thường là gì Bạn đang đọc Tam cang ngũ thường là gì Tìm hiểu về Tam cương ngũ thường 三纲五常 sāngāngwǔcháng Tam cương ngũ thường là chuẩn mực đạo đức, đời sống chính trị, xã hội được Khổng Tử đặt ra và nam giới phải theo, bên cạnh tam tòng tứ đức mà nữ giới phải theo. Khổng Tử cho rằng một xã hội duy trì được tam cương ngũ thường là một xã hội an bình, hạnh đang xem Tam cang ngũ thường là gì Không thể phủ nhận rằng nền văn hóa truyền thống Trung Quốc nói chung và nho giáo nói riêng có sự tác động ảnh hưởng nhất định đến Nước Ta. Chính vì thế cụm từ “ tam cương ngũ thường ” không còn quá lạ lẫm với người tất cả chúng ta thế nhưng ý nghĩa sâu xa của nó là gì thì không phải ai cũng nắm rõ. Hôm nay tất cả chúng ta sẽ cùng tìm hiểu và khám phá về chuẩn mực đời sống xã hội xưa “ tam cương ngũ thường ” . Dĩ hòa vi quýTam thập nhi lậpTề gia trị quốc bình thiên hạ 1. Tam cương là gì? Tam cương trong tiếng Trung là 三纲 sāngāng. Tam là ba 三/ sān, cương là giềng mối 纲/gāng. Giềng chính là sợi dây ở mép lưới đánh cá, nhờ nó mà lưới chắc chắn hơn và các mối dây cũng được liên kết chặt chẽ hơn. Giềng mối chính là mối chính liên kết với các mối khác, hiểu theo nghĩa bóng là mối quan hệ chủ đạo, dựa vào nó mà điều chỉnh các mối quan hệ khác. Xem thêm Pad Thai là gì? Tìm hiểu về món Pad Thai của Thái Lan Như vậy hiểu đơn thuần tam cương là chỉ ba mối quan hệ chính trong xã hội Quân thần cương 君为臣纲 jūn wéi chén gāng mối quan hệ vua-tôi Phụ tử cương 父为子纲 fù wéi zǐ gāng mối quan hệ cha-conPhu phụ cương 夫为妻纲 fū wéi qī gāng mối quan hệ vợ-chồng Theo tam cương, người trên vua-cha-chồng phải có nghĩa vụ và trách nhiệm yêu thương, chăm nom, phủ bọc người dưới thần-con-vợ . trái lại, người dưới có nghĩa vụ và trách nhiệm tôn trọng, yêu thương, phục tùng, hiếu thuận với người trên. Theo Khổng Tử nếu giữ được mối quan hệ như vậy thì mái ấm gia đình sẽ niềm hạnh phúc, ấm cúng, quan hệ vua – dân hòa giải, quốc gia yên bình, không thay đổi . ảnh sưu tầm Ngũ thường tiếng Trung là 五常 wǔcháng. Ngũ 五/ wǔ là năm, thường 常/ cháng là thường thường, thường có, thường xuất hiện trong cuộc sống của con người. như vậy ngũ thường chính là năm điều thường xuất hiện trong cuộc sống con người, nó hình thành nên đạo đức mà mỗi người nên có. Đó là Xem thêm Pamphlet là gì? Ấn phẩm được sử dụng nhiều trong ngành quảng cáo 3. Ý nghĩa của tam cương ngũ thường trong cuộc sống Rõ ràng là trong xã hội xưa khi chưa có pháp lý, xã hội quản lý và vận hành theo tam cương ngũ thường, hoàn toàn có thể nói tam cương ngũ thường có ý nghĩa nhất định trong việc duy trì sự không thay đổi và bình an của xã hội . Tuy nhiên không hề nói trong xã hội văn minh thời nay tam cương ngũ thường không còn vai trò gì. Tuy rằng xã hội lúc bấy giờ đã có pháp lý, thế nhưng sự răn dậy bằng đạo đức không hề thiếu chính thế cho nên tam cương ngũ thường vẫn có nhưng giá trị nhất định. Bởi trong xã hội phức tạp như lúc bấy giờ giữa người với người càng cần có sự tin cậy, tôn trọng, chân thành hòa nhã . Trên đây là những kiến thức và kỹ năng về tam cương ngũ thường mà Ánh Dương muốn gửi đến những bạn. Hi vọng là qua bài viết này những bạn đã hiểu hơn về “ tam cương ngũ thường ” tưởng quen mà lạ này . [ad_2]
Tam Cang là quân thần cang, phụ tử cang và phu thê cang. 1. Đạo quân thần Theo đà tiến hóa của thời đại mà hiện giờ chữ quân thần phải đổi lại là chữ quốc dân. Muốn cho quốc dân được phú cường, chúng ta phải làm cho mặt kinh tế được dồi dào, chánh trị được khéo léo và mỗi công dân đều biết tự trọng lịch sử nước nhà. Với cái thiên chức làm dân biết giúp cho nước nhà phú cường và giữ vững nền độc lập mới xứng đáng là một tôi con của Tổ quốc và mới giữ mồ mả của ông cha. Song đứng ra cứu quốc không xem đó là điều nguy kịch đời mình, vẫn hy sinh cả sự nghiệp vật chất lẫn tinh thần để đổi sự thành công mới trọn nghĩa trung. 2. Đạo cha con Làm cha mẹ rất là khổ sở với con cái, từ sự nuôi nấng và dạy dỗ cho nên người gặp phải gia đình nghèo khó cha mẹ phải làm sao cho ra tiền đặng lo sắm y-phục cho con, đưa con đến trường để học tập, được trở nên người hữu dụng. Nếu kẻ làm con biết xét đến điều đó, thì phải hết lòng hiếu thảo cha mẹ, cung phụng cha mẹ từ miếng ăn, thức mặc hoặc thuốc thang khi đau ốm, để đáp trọng ân và biểu-dương một tinh-thần hiếu hạnh cao cả trong xã hội. Ông Mạnh Tử nói “Nội tắc phụ tử, ngoại tắc quân thần, nhân chi đại luân dã”, nghĩa là bên trong thì đạo cha con, bên ngoài thì đạo vua tôi, đó là cái giềng mối lớn của đạo người vậy. Như thế chữ hiếu đâu phải là việc phụ thuộc mà kẻ làm con chẳng hết lòng báo bổ được ư? 3. Đạo chồng vợ Đã vui vẻ kết cấu với nhau lập thành một gia đình, thì kẻ làm chồng vợ phải cần tiêu biểu cách đối xử tốt đẹp cho gia đình người khác bắt chước, không nên vì lý do không chánh đáng mà sanh ra tình phai ý lợt. Nhiều khi vợ chồng bỏ nhau quá dễ dàng chỉ vì thú dục mạnh hơn tình nghĩa. Nếu loài người sống không biết tình nghĩa thì cái sống ấy không khác loài vật, chẳng chút nề-nếp gia-phong, tôn-ti trật tự. Như thế có thú vị gì đâu? Ngũ Thường Nói đến ngũ thường, không một đồng đạo nào lạ tai cả, vì điều nầy hẳn mỗi người đã được cha mẹ hoặc ông già bà cả thường hay nói đến và dạy cho con cháu trong nhà học theo. Nhưng cách chỉ bảo ấy chỉ lấy đại khái, nên lắm người hiểu còn mờ mịt. Hôm nay cần hiểu rành hơn để cư xử đúng đạo làm người. Ngũ thường gồm có Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín. Nhân Nhân là keo là hồ để hàn gắn lại bao vết thương lòng của nhơn loại. Người có lòng nhân hay tha thứ kẻ lầm lỗi, giúp đỡ người khác từ miếng vải, bát cơm và không chủ-trương sát sanh hại mạng. Hơn nữa, đối với cha mẹ họ còn đầy lòng hiếu hạnh. Sách có câu “Trắc ẩn chi tâm, nhân chi đoan giả”, nghĩa là lòng thương yêu mọi người là mối đầu của lòng nhân. Thế nên, lòng nhân là nguồn sống của mọi loài, và người có được lòng nhân tức là ân nhân của tất cả nhân loại – Lẽ thứ nhất của lòng nhân là thường ra tay giúp đỡ kẻ thiếu hụt và thương yêu người nguy nan mà tế trợ mọi công ăn việc làm có lợi ích. – Lẽ thứ hai của lòng nhân là họ đối với người lở phạm tội lỗi đến họ, thì họ luôn luôn tha thứ, nếu người biết ăn năn. Lại họ còn dạy dỗ những điều chơn chánh và đạo lý khiến người ấy trở nên người nhân từ như họ. – Lẽ thứ ba của lòng nhân là không khi nào vì sự lợi riêng cho mình mà làm cho kẻ khác bị đau khổ, hay vì món lợi chung mà giết hại người khác một cách vô cớ. – Lẽ thứ tư của lòng nhân là lúc nào họ cũng giữ sự ăn uống có chừng mực, không hề đụng đâu ăn đó, hay ăn quá độ, để vô tình tự sát đời họ quá vô nghĩa và họ không khi nào vì cuộc vui thích không có ý nhị mà sát hại sanh vật cho được thỏa mãn khẩu dục. – Lẽ thứ năm của lòng nhân là họ rất hiếu hạnh với cha mẹ, nuôi dưỡng cha mẹ từ miếng ăn, thức uống, chỗ ở, cho đến lời nói hoặc việc làm gì cũng đều làm vui lòng cha mẹ và giữ danh giá của cha mẹ không để người khác rẽ khinh hay để cha mẹ có một điều gì khổ sở. Nghĩa Mỗi người đều hiểu việc nghĩa là điều tốt đẹp nhứt, dù ai cũng phải có nó trong lòng mỗi ngày và cần thực hành đúng cách. a – Đối với trong nhà từ trên ông bà cha mẹ đến anh em lúc nào cũng phải đầy lòng thương mến và giúp đỡ. Có thể chia sớt cho nhau điều vui, gánh đỡ cho nhau việc khổ, nghĩa là bất tất việc gì luôn luôn nghĩ đến lẽ phải đối với thân quyến. Có được thế mới làm cho thân quyến bền chặt. b – Ngoài việc đối xử gia đình, chúng ta còn đem việc nghĩa đối với xã hội, từ vua quan đến dân dã bạn bè, lúc nào cũng phải đem hết tâm tư trí lực của mình và việc làm lợi ích cho nhau, nghĩa là phải biết cùng sống còn, cùng vinh hạnh trên lẽ phải và phải biết cứu nhau trong chỗ nguy biến. Nói tóm lại là từ trên đến dưới có thể giúp nhau nhiều việc công nghĩa. c – Là trong khoảng sống, chúng ta không tránh khỏi gặp phải lúc bất trắc của mình hay kẻ khác, nếu gặp việc bất trắc của kẻ khác mình hãy tận tâm ứng phó để cứu giúp họ không hề sụt sè lánh né. d – Đến như gặp phải trường hợp nghèo khó cho đến cơm không đủ no, áo không đủ mặc nhưng với lòng của kẻ biết việc nghĩa không hề chủ trương những việc bất lương và luôn luôn giữ tiết tháo trong việc chơn chánh, dầu cạp đất ăn rau, không hề thâu đoạt của người vô cớ. Còn được giàu sang dư giã thì đem giúp đỡ kẻ thiếu hụt, không có tư lợi ích kỷ hay vị danh. Lễ Mỗi người đều phải biết lễ, vì nó tiêu biểu lòng kính mến. Nếu hiểu biết được ý nghĩa của việc lễ thì a – Đối với gia đình từ ông bà cha mẹ anh chị trong nhà luôn luôn giữ sự chào hỏi lễ phép và nói năng bặt thiệp. Sự chào hỏi ấy với lòng thành thật cung kính chớ không có hoa dạng bề ngoài, khi nghe tiếng gọi của cha mẹ, anh chị hoặc người lớn tuổi thì liền dạ, gặp người quen lớn hay xa lạ cũng vậy phải hai tay nắm lại để ngay ngực cúi đầu chào hỏi một cách nghiêm cẩn. Và có điều cần nhớ là dù gặp khách quen hay lạ mình cũng vẫn đối đãi tử tế như nhau, nếu vì người quen mà ta chỉ chào hỏi qua loa khiến người ấy chẳng vui lòng, chẳng thế còn làm cho kẻ trong nhà bắt chước cử chỉ ấy không tốt. Cách lễ Phật chấp tay xá gọi là “hiệp chưởng”. Đối với người thủ lễ nắm tay lại gọi là “củng thủ”. b – Ngoài việc chào hỏi trong gia đình, chúng ta còn đối với bên ngoài như hàng vua quan, các bậc tôn trưởng luôn luôn giữ lấy lời lễ độ chào hỏi. Chẳng những được nhân cách lịch sự mà còn gây được cảm tình với người nữa. c – Khi đến các ngôi chùa, miếu, lăng, tẩm luôn luôn giữ vẻ cung kính. Trước khi vào bái đường phải lột giày, guốc, khăn, nón để ngoài rồi sẽ từ từ tiến vào một cách nghiêm chỉnh, không được chấp tay sau lưng. Khi lễ bái, ngoài dung nghi chỉnh tề, còn giữ trọn lòng cung kính và tin tưởng Đức Phật. d – Nam cũng như nữ mỗi khi hầu chuyện với nhau đều phải giữ lời lẽ lễ độ, cử chỉ đoan trang không nên nói diễu cợt tục tằn và không để cho lòng nghĩ quấy. e – Việc chồng vợ mặc dầu đã ăn ở lâu ngày, chẳng vì thế mà nói lờn lả, trái lại phải đem lòng cung kính nhau luôn khi nói năng phải thưa dạ, lúc đi, đứng, nằm, ngồi phải biết nhường nhịn cho lễ phép, không được xem thường nhau mà sanh lòng lờn lã. Trí Con người hơn loài vật nhờ có cái trí, như a – Lấy trí xét nghĩ chất rượu thường làm cho con người tâm trí cuồng táo không còn phong độ tốt lành, không còn biết suy xét việc phải trái, làm nhiều tội lỗi chửi vợ mắng con, gây ó xóm riềng, tựu tập bạn bè bày tiệc độ, sanh việc cướp bóc, gây lắm sầu khổ, nên không hề uống. Đức Phật cho rượu là thứ thuốc độc. Ngài thường răn các môn nhơn của Ngài phải cử rượu. Song muốn cử rượu thì lúc nào cũng nhận nó là tai hại, không nên nếm thử. Chỉ trừ khi nào có bịnh mà lương y bảo phải dùng với thuốc mới được uống, song mạnh rồi thôi. Xưa có một người qui y Tam bảo, một hôm khát nước y gặp bình rượu liền uống cho đỡ khát, bỗng con gà chạy đến y bắt làm thịt uống với rượu, người con gái mất gà đến kiếm, y lại bắt hãm hiếp, bà già cô gái ấy kiện y ra tòa thì y chối rằng không có bắt gà và hiếp dâm. Thế thì từ cái tội rượu dẫn đến tội ăn trộm gà, tà dâm vọng ngữ một cách dễ dàng chẳng là đáng sợ lắm sao? b – Lúc nào cũng lấy trí xét thấy việc cờ bạc là thứ phá hoại tài sản, nó thường làm cho người tiêu tan sự nghiệp, hết bạc tiền; như thua thì bán vòng vàng, quần áo, đất cát, cửa nhà; đến khi không còn món gì bán được nữa thì sinh ra trộm cướp. Trai sa vào cờ bạc thì sanh ra đàng điếm; gái sa vào cờ bạc thì sanh ra đĩ thỏa, họ không còn nghĩ đến danh giá của họ hay phong hóa nước nhà là gì. Xét cờ bạc có tai hại như thế; người có trí luôn luôn xa lánh không nên mó vào. c – Lấy trí xét nghĩ sắc đẹp là món hại như nọc ong, nọc rắn, nếu người chạm đến là nguy hại, nên ngăn ngừa không hề say đắm – Vua lụy vì sắc thành lũy tan hoang. – Quan lụy vì sắc bại trận mất chức. – Dân lụy vì sắc bị tù đày khổ sở. Ngoài ra sắc đẹp còn làm cho người mờ ám trí tuệ, vì nhốt tư lự trong chẳng rời và cũng xô người vào cảnh nghèo nàn tù tội không kể xiết. Đã thấy nạn đắm mê sắc lịch tai hại to lớn, người có trí chẳng lúc nào mà không tìm cách ngăn ngừa nó. d – Việc hút xách thường làm mòn mỏi xác thân, tiêu hao tiền của quá vô ích, còn làm cho người coi rẻ tuổi tên, lấy trí xét rõ chỗ hại của nó tự gắng gổ giữ và chừa bỏ nó, nếu mình lỡ ghiền. e – Mỗi khi thấy những việc phi nghĩa bất lương, chẳng luận có tai hại cho mình hay kẻ khác, dầu có đem lại món lợi to bao lớn ta vẫn cự tuyệt cho đến hũy kiếp; và luôn luôn tìm cách tránh cho kẻ khác không thể lâm vào. Tại sao? Vì việc làm ấy chỉ có lợi vật chất ngắn ngủi mà gây khổ báo lâu dài cho đời mình vậy. Tín “Nhơn vô tín bất lập” nào ai chẳng biết? Chữ tín giúp cho người quên mỏi mệt để theo sát nguyện vọng. Để hiểu nó như thế nào, chúng ta a – Lúc nào cũng tự tin nơi lòng dè dặt và cố gắng của mình thì sớm muộn gì cũng đạt mục đích, nghĩa là đến chỗ mình muốn, nên gặp những khó khăn không hề nản lòng bỏ dở. b – Tự tin rằng nếu chúng ta không đem lời dối gạt người, cố nhiên người không dối gạt lại và chúng ta đối với ai cũng lựa câu ứng đáp chắc thật, việc làm chơn-chánh thì họ sẽ tin vào việc làm và lời nói của ta, khiến cho việc làm ấy mau được thành-công viên-mãn. c – Chúng ta tự tin rằng việc nào của mình làm thì sớm muộn gì nó cũng trả lại cho mình không sai chạy một mảy, như câu “tự tác huờn tự thọ” Nói theo luật nhân quả hễ gieo thứ giống nào thì lên trái nấy, và mình càng gieo thì nó càng lên, do đó chúng ta luôn luôn ngăn ngừa chừa bỏ những điều mà chúng ta đoán biết rằng ngày kia nó sẽ đem lại một kết quả không hay cho chúng ta. d – Khi thấy người khác có những việc làm chơn chánh, đối xử thành thật, nhứt là có đức hạnh nghiêm cẩn, thì chúng ta nên giao phó cho họ việc làm hệ trọng. Vì con người ấy sẽ gây sự kính mến và được tin cậy của nhiều người. Trái lại, khi thấy rõ người có tâm đức tốt lành ngay thật mà mình không mạnh dạn trao cho họ những công việc xứng đáng, thì không thế nào mình làm việc lớn trong xã hội được. e – Khi thấy người khác có lòng tin cậy chúng ta, thì chúng ta chỉ nên làm cho họ tin cậy thêm, bằng cách nêu rõ việc làm chơn chánh, lời lẽ thành thật. Ngược lại chúng ta không nên vô tình hay cố ý để lòng tin cậy ấy bị mất. g – Mỗi khi lòng còn nghi ngờ điều chi, chúng ta nên đến hỏi người của ta nghi hay người hiểu biết hơn để nhờ họ giải bày rõ rệt việc ấy, nếu là việc hợp lý thì mình cứ tin ngay, không còn nghi nữa. Được thế thì bắt đầu từ đó việc làm của chúng ta được tiến xa hơn. Nhược bằng nghe người giải bày tường tận mà lòng mình còn nghi thì sự hiểu biết cũng như việc làm phải ngưng trệ và thất bại. Trích từ quyển Chú Nghĩa
1. Tam cương Là khái niệm đạo đức – xã hội của Nho giáo. Nho giáo coi giữa người và người có năm quan hệ ngũ luân vua – tôi, cha – con, anh – em, chồng – vợ và bè bạn. Về sau ba quan hệ cơ bản được nhấn mạnh là “tam cương”. Cương là dây lớn của chiếc lưới cũng gọi là giềng lưới hay rường lưới nghĩa bóng chỉ những thứ quan trọng bậc nhất trong một cơ cấu tổ chức. Tam cương là ba quan hệ chủ chốt trong xã hội theo quan điểm thời phong kiến là vua – tôi, cha – con, chồng- vợ quân – thần, phu- tử, phu – phụ, trong đó người trên vua, cha, chồng phải thương yêu chăm sóc và bao dung người dưới tôi, con, vợ. Và ngược lại người dưới phải kính nhường, thương yêu, phục tùng và biết ơn người trên. Cách ứng xử đúng chức năng như vậy làm cho gia đình thuận hòa êm ấm. Theo Nho giáo, áp dụng cách thức như vậy trong quan hệ xã hội và quan hệ Nhà nước, giữa người cầm quyền với dân cũng tạo ra một cảnh êm ấm thuận hòa. Đó là cách lấy gia đình thuận hoà làm mẫu để xây dựng xã hội thái bình hoà mục, trật tự và ổn định. Tuy nhiên trong ba quan hệ này, quan hệ vua tôi là quan trọng và được đề cao nhất vì “trung quân” đồng nghĩa với “ái quốc”. Tam cương thể hiện trật tự trong xã hội đi liền với “ngũ thường” năm đức cơ bản của con người gọi tắt là “cương thường” là nền tảng chính trị đạo đức của xã hỏi phong kiến. 2. Ngũ thường Là khái niệm đạo đức Khổng học. “Thường” bình thường, vĩnh hằng. Ngũ thường chỉ năm đức cơ bản của đạo làm người là nhân, nghĩa, lễ, trí, tín. – Nhân Khổng Tử rất đề cao đức “nhân. Ông đã đưa nhân lên thành đức mục cao nhất coi đó là đích của sự tu dưỡng. Không Tử để cặp rất nhiều lần vẽ đức nhân nhưng ong chưa đưa ra nót định nghĩa rõ ràng và cụ the về đực mục trung tăm đó của Nho giáo. Theo sách Luận ngữ, Khổng Tử nói “nhân là yêu người”. Và ở một cái khác “nhân” là trung thứ, là “cái mình không muốn thì đừng làm cho kẻ khác; cái mình mong có thì làm cho kẻ khác có”. Lúc khác Khổng Tử lại nói “Ai làm được năm điều này trong thiên hạ người đó là nhân cung, khoan, tín, mẫn, huệ”. Cung là khiêm tốn biết tôn trọng người và tôn trọng công việc, không coi thường thành ra kiểu ngạo, thành ra không chu đáo. Khoan là rộng rãi, không riết róng, thu nhận của người đến kiệt. Tín là nói sao làm vậy, coi trọng lời hứa. Mẫn là nhanh nhẹn linh hoạt không lề mề, trì đòn, ỳ ra. Huệ là rộng rãi không bủn xỉn, keo kiệt, cho người không tiếc rẻ, không bớt xén. Làm được năm điều đó thì dân vui lòng nghe theo, dân tin, dễ sai khiến… Đó là đức mục của người cảm quyền trong quan hệ với dân. Nhân như vậy đòi hỏi phải xuất phát từ lòng thương người, từ sự tôn trọng con người mà làm việc có hiệu quả, có công ơn với dân. Ngày nay, có thể hiểu một cách khái qua nhân là lòng thương người. – Nghĩa điều được coi là hợp lẽ phải, làm khuôn phép cho cách xử thế của con người trong xã hội. Nhưng người có nghĩa là những người có quan hệ tình cảm thủy chung, không bao giờ thấy việc lợi mà bỏ việc nghĩa, luôn hành động phù hợp với những quan niệm đạo đức nhất định. – Lễ chữ lễ trước tiên chỉ dùng để nói cách thờ thần cho được phúc, tức là chỉ có nghĩa cúng tế, thuộc về đường tôn giáo mà thôi. Sau dùng rộng ra, để chỉ những quy củ trong xã hội mà con người phải tuân theo để có được những tình cảm đạo đức tốt, phù hợp với lẽ phải trái, tình thân sơ và trật tự trên dưới. Tóm lại đó là những phép tắc phải theo cho đúng khi tiếp xúc với người khác, thường là người trên. – Trí là khả năng nhận thức, ghi nhớ, suy nghĩ, phán đoán của con người. – Tín là đức tin của con người biết trọng lời hứa và biết tin nhau. Những quy định nêu trên thuộc hệ tư tưởng chính trị – đạo đức Nho giáo đã được nhiều triều đại phong kiến Trung Hoa cũng như những nước chịu ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa nối tiếp nhau tôn trọng và áp dụng để duy trì sự tồn tại, thịnh vượng của các thể chế đó. Ngày nay, tuy xã hội đã có nhiều biến đổi nhưng những giá trị tốt đẹp của Nho giáo làm nên truyền thống văn hóa dân tộc vẫn được người dân Việt Nam gìn giữ và phát huy.
tam cang ngũ thường là gì