thiên cơ về việt nam
Hiệp định ATIGA: Thách thức và cơ hội của ngành mía đường Việt Nam. 25/07/2022 08:27 2. 25-07-2022 08:27:00+07:00. Một trong những thách thức lớn là vùng mía nguyên liệu đã sụt giảm nghiêm trọng, bên cạnh đó, ngành đường nội địa cũng thiệt hại rất lớn bởi sức ép từ
Việt Nam là một trong những quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề của dịch bệnh, tăng trưởng kinh tế năm 2021 chỉ ở mức 2,58%, thấp nhất trong vòng 30 năm qua. Do đó, để trở lại quỹ đạo tăng trưởng, Việt Nam cần thực hiện Chương trình phục hồi kinh tế bền vững vừa đủ liều lượng, vừa trúng mục tiêu và với thể chế thực thi hiệu quả.
4.1. Quan điểm, mục tiêu hoàn thiện quản lý nợ công ở Việt Nam trong hội nhập quốc tế giai đoạn 2018 - 2022 .. 123 4.2. Giải pháp hoàn thiện quản lý nợ công ở Việt Nam trong hội nhập quốc
Các tham luận tại Hội thảo tiếp tục làm rõ hơn bản chất, đặc trưng cơ bản của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân, vì dân; làm rõ thực trạng vai trò, tổ chức và hoạt động của các thiết chế, cơ quan trong bộ máy Nhà nước ở Việt Nam
Tài liệu "Một số giải pháp hoàn thiện cơ cấu tổ chức trong doanh nghiệp Việt Nam" có mã là 262163, file định dạng zip, có 20 trang, dung lượng file 93 kb.Tài liệu thuộc chuyên mục: Luận văn đồ án > Kinh tế > Quản trị kinh doanh.Tài liệu thuộc loại Đồng. Nội dung Một số giải pháp hoàn thiện cơ cấu tổ chức
Tải Tranh tô màu sắc truyện cổ tích việt nam 2. Hoặc bạn cũng có thể tải ở liên kết dưới: TẢI TRANH TÔ MÀU TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAMKết luận. Trên nội dung bài viết này, Shutter Photo vẫn gửi đến chúng ta rất nhiều tranh ảnh tô màu sắc truyện cổ tích vn đẹp và rất đầy đủ nhất.
Vay Tiền Online Cấp Tốc 24 24. LỜI NÓI ĐẦU Việt Nam có vị thế đặc biệt quan trọng ở Đông Nam Á nhờ có vùng lãnh thổ rộng lớn gồm phần đất liền rộng trên ba trăm ngàn kilomét vuông nằm dọc bờ Tây Biển Đông theo hướng á kinh tuyến và phần biển rộng trên một triệu kilomét vuông, gấp ba lần diện tích đất liền. Biển Việt Nam nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa, có các sông lớn cỡ thế giới mà lưu vực nằm trên sáu nước đổ vào. Biển Việt Nam giữ vai trò quan trọng về môi trường, sinh thái Biển Đông và khu vực, là vùng chuyển tiếp giữa Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương về mặt địa lý sinh vật và hàng hải. Theo vị trí và hình thái, biển Việt Nam có thể được chia thành các vùng biển nửa kín vùng biển Vịnh Bắc Bộ và vùng biển Vịnh Thái Lan, các vùng biển hở ven bờ vùng biển ven bờ Nam Trung Bộ, vùng biển ven bờ phía đông Nam Bộ và vùng biển khơi vùng biển quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Vùng bờ biển Việt Nam dài trên km với 114 cửa sông lớn nhỏ, hàng năm đổ ra biển khoảng 847 tỷ m3 nước và 250 triệu tấn bùn cát, chủ yếu từ sông Mê Công và sông Hồng lớn hàng thứ 9 và 14 trên thế giới. Dọc bờ biển có 12 đầm phá ở miền Trung với tổng diện tích trên 400 km2 và 48 vũng vịnh với tổng diện tích trên km2. Việt Nam có gần hòn đảo ven bờ với diện tích hơn km2, trong đó trên 70 đảo có khoảng 260 nghìn dân sinh sống, mang lại nhiều giá trị quý giá như đất sinh cư, du lịch sinh thái, xây dựng cơ sở hạ tầng khai thác biển. Một số đảo như Thổ Chu, Cồn Cỏ, có giá trị nối đường cơ sở để tính lãnh hải. Hai quần đảo xa bờ Hoàng Sa và Trường Sa mang lại lợi ích nhiều mặt và lâu dài cho đất nước. Nhiều vũng vịnh, cửa sông và đầm phá là tâm điểm phát triển cơ sở hậu cần khai thác biển, các khu chế xuất, mậu dịch tự do, đặc biệt là các cảng biển. Nhiều vùng cửa sông, đầm phá, vũng vịnh, đảo, bãi cát biển, xứng đáng là các kỳ quan thiên nhiên, có tiềm năng lớn phát triển du lịch-dịch vụ. Các bãi đẹp nổi tiếng như Trà Cổ, Cửa Lò, Lăng Cô, Nha Trang, Bãi Dài Phú Quốc, và các vịnh đẹp như Hạ Long, Nha Trang, Lăng Cô, đã góp phần thu hút mỗi năm hàng triệu khách trong và ngoài nước đến du lịch biển, ước tính 70% tổng lượng khách của cả nước. Tài nguyên thiên nhiên biển truyền thống của Việt Nam được đánh giá khách quan là đa dạng nhưng kém phong phú và đang có nguy cơ cạn kiệt, điển hình là thuỷ sản và dầu khí mà sản lượng khai thác dự kiến trong những năm tới sẽ giảm. Ngày nay, tài nguyên thiên nhiên không còn được hiểu theo tư duy truyền thống là những dạng vật chất lấy ra được và có giá trị sử dụng cho mục đích cụ thể nào đó, mà được hiểu là tất cả các yếu tố tự nhiên có thể sử dụng ở các hình thức khác nhau, hoặc không sử dụng nhưng sự tồn tại của nó mang lại lợi ích cho con người. Để phát triển mạnh kinh tế biển theo hướng bền vững nhằm thực hiện chiến lược biển theo Nghị quyết TW 7, kỳ họp 4, Khoá X của Đảng, ngoài sử dụng hợp lý và quản lý tài nguyên truyền thống, rất cần thiết điều tra, đánh giá để khai thác, sử dụng hiệu quả các dạng tài nguyên mới hoặc còn ít hiểu biết, trong đó có tài nguyên vị thế, kỳ quan địa chất và sinh thái trên vùng biển đảo. Đây là các dạng tài nguyên đặc biệt và có tiềm năng lớn cho phát triển kinh tế, đặc biệt là kinh tế dịch vụ ở vùng biển, ven biển và các đảo Việt Nam, mà việc khai thác sử dụng chúng có hiệu quả có thể tạo nên sự bứt phá về kinh tế biển. Về khoa học, tài nguyên vị thế, kỳ quan địa chất và sinh thái là vấn đề mới không chỉ đối với Việt Nam mà còn đối với nhiều nước trên thế giới. Nhưng trên thực tế, việc khai thác và sử dụng các nguồn tài nguyên này đang đem lại những lợi ích to lớn, lớn hơn nhiều các tài nguyên truyền thống. Đây là vấn đề rất quan trọng mà việc nhận thức đúng đắn sẽ tạo ra một cách nhìn mới về sử dụng hợp lý tài nguyên, phát triển bền vững và tổ chức không gian, quy hoạch phát triển kinh tế biển, trọng tâm là kinh tế dịch vụ, thành phần cơ bản của nền kinh tế thị trường. Việc hiểu rõ bản chất, giá trị và việc điều tra, đánh giá toàn diện và hệ thống các tài nguyên này có thể tạo ra bước đột phá đối với phát triển kinh tế, bảo tồn tự nhiên, góp phần bảo vệ an ninh, chủ quyền quốc gia vùng biển đảo; đồng thời còn phát huy được các giá trị văn hoá, khoa học và giáo dục, làm tăng thên niềm tự hào và tình yêu đất nước đối với mỗi người Việt Nam. Xuất phát từ những vấn đề nêu trên, nhiệm vụ điều tra, đánh giá các dạng tài nguyên này đã được đặt ra trong Dự án số 14 “Điều tra cơ bản và đánh giá tài nguyên vị thế, kỳ quan sinh thái, địa chất vùng biển và các đảo Việt Nam” thuộc đề án tổng thể “Điều tra cơ bản và quản lý tài nguyên–môi trường biển đến năm 2010, tầm nhìn đến năm 2020” do Thủ tướng chính phủ phê duyệt theo Quyết định số 47/2006/QĐ-TTg ngày 01 tháng 03 năm 2006. Dự án được thực hiện trong thời gian 2007 – 2011 do Viện Tài nguyên và Môi trường biển chủ trì, với sự tham gia của nhiều chuyên gia thuộc nhiều viện nghiên cứu và trường đại học. Cuốn sách chuyên khảo này được biên soạn chủ yếu dựa trên những kết quả điều tra, nghiên cứu của Dự án. Trong đó, tập thể tác giả đã cố gắng trình bày có tính hệ thống những kết quả bước đầu về phương pháp luận nghiên cứu và đánh giá tài nguyên vị thế, kỳ quan địa chất và sinh thái vùng biển đảo việt Nam, đặc điểm phân bố, bản chất tự nhiên và giá trị của chúng đối với phát triển kinh tế - xã hội, bảo tồn tự nhiên và góp phần đảm bảo an ninh quốc phòng, chủ quyền quốc gia trên các vùng biển đảo. Cuốn sách cũng đề cập đến các giải pháp quản lý và sử dụng hợp lý tài nguyên vị thế, kỳ quan địa chất và sinh thái vùng biển, ven biển và các đảo Việt Nam, đồng thời nêu một số giải pháp cụ thể cho phát triển du lịch địa chất biển và du lịch sinh thái biển một số trọng điểm biển đảo như Cát Bà và Phú Quốc. Tập thể tác giả chân thành cảm ơn Nhà xuất bản Khoa học Tự nhiên và Công nghệ, Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam đã xét duyệt và hỗ trợ kinh phí xuất bản cuốn sách này. Xin chân thành cảm ơn Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Tổng Cục Biển và Hải đảo Việt Nam, Văn Phòng Ban chỉ đạo Nhà nước về Điều tra cơ bản và quản lý tài nguyên-môi trường biển đến năm 2010, tầm nhìn đến năm 2020 đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện thành công Dự án 14 và động viên, khuyến khích các tác giả soạn thảo chuyên khảo này. Tập thể tác giả cũng chân thành cảm ơn tất cả các đồng nghiệp, các thành viên của Dự án 14 - Đề án Tổng thể 47, đã giúp đỡ, hỗ trợ tư liệu và đóng góp ý kiến cho việc hoàn thành cuốn sách này. Đặc biệt, xin chân thành cảm ơn Nguyễn Địch Dỹ đã đọc và góp nhiều ý kiến quý báu cho việc biên tập và hoàn thiện cuốn sách. Đây là vấn đề còn mới mẻ, nên chắc chắn cuốn sách còn có những hạn chế, mong được độc giả lượng thứ và góp ý, trao đổi để nghiên cứu tiếp tục. Chấp nhận những khiếm khuyết khó tránh, hy vọng cuốn sách sẽ là tập tư liệu hữu ích góp phần thúc đẩy nghiên cứu khoa học, giảng dạy, quản lý và thông tin tuyên truyền tới cộng đồng về tài nguyên vị thế, kỳ quan địa chất và sinh thái biển đảo Việt Nam. Discover the world's research25+ million members160+ million publication billion citationsJoin for freeThere are a number of ways to implementation the epiphytic biogenic-abiogenic interaction in plant communities. Epiphytic plants form a special type of organic or organo-mineral substrate—suspended soils. This study is devoted to the investigation of the biogenic-abiogenic interactions in epiphytic formations and characteristic of the suspended soils, which are formed in them with special reference to the assessment of stabilization rates and structural composition of humic acids in the suspended soil in tropical forests of South Vietnam. General properties of the soil and the elemental composition of suspended soils were determined, and the humic substance chemical composition was evaluated using solid state 13C-NMR. The soils formed by epiphytes show a positive correlation in the isotopic composition of nitrogen with epiphyte tissues and to a greater extent with forophyte tissues and, probably, take part in their nitrogen nutrition, concentrating zoogenic nitrogen due to ant presence. The most comparable soil type in terms of organic matter composition is Cambisols from humid forests of subboreal and subtropical zones. The results we obtained are consistent with the concept of soil organic matter stabilization the proportion of aliphatic compounds in the component composition in bulk organic matter is higher than in humic acids, isolated from soils investigated. Thus, it can be concluded that in suspended soils soil organic matter stabilization processes active and expressed in formation and accumulation of humic Thị Minh TrangNguyễn Thị Nguyệt Hà Trần Đức ThạnhCoastal area in Khanh Hoa Province belongs to Coastal South Central Region, where the Vietnam mainland juts out farthest into the west of the East Sea, and has a special relationship in space with the offshore Spratly islands, the geo-strategic Highlands and economic - political centre of Ho Chi Minh City. This coastal area is close to the sloping and deep continental shelf; possesses the diverse landforms and complex spatial structure with the systems of peninsula, islands, bays, lagoons and river mouths etc. that creates enormous potential for geo-natural position resources, of which highlights are the values of coastal bays and islands. In the geo-economic position resources, Khanh Hoa coastal area has great potential to build the base for exploiting offshore resources, establish large marine economic zones, and develop the economy of marine services, especially the port - navigation and coastal ecotourism. In the geo-political position resources, this is one of leading sites for defending and protecting the country from sea, and ensuring the sovereignty and national interests in the East Sea including the direct administration of Spratly island district. The detailed investigation and assessment of the position resources in this coastal area will be an important scientific basis for the sea and island development in Khanh Hoa to many precious conservation values which have been researched in detail, along with the management efforts of Hai Phong City and the Ministry of Agriculture and Rural Development, the Bach Long Vy National Marine Protected Area has been established. This is the first marine protected area in Vietnam that the Prime Minister signed the decision to establish. To protect and promote these values, planning for optimal space use and management is the first solution of importance. To raise awareness of conservation values as a basement for sustainable conservation, it is necesary to honor the natural and cultural titles for Bach Long Vy including ecological wonders, geological heritages, position resources, and sea-island culture. To contribute to creating benefits for sustainable development, it is feasible to build some trade marks for the products related to MPA such as Bach Long Vy ecological tourism, Bach Long Vy Abalone, BLV Holothurians, and Bach Long Vy Squids ... Keywords Marine protected areas, titles, trade marks, Bach Long estuarine areas EAs in Hai Phong have great potential for the soci- economic development of this city. Regarding the geo-natural resources, EAs are the focal location of the waterway systems; transition zone between mainland and sea; hinge between the Northeast coastal zones and Red River Delta; and the gateway to Northern Vietnam from South China. They are classic delta and estuary having, semi-closed structure, with stably large and deep river mouths, and extensive intertidal zones. EAs have the long lasting natural evolution and locate in the coastal tropical monsoon zone, where the natural conditions are rather stable and the natural disasters are not too harsh. This is also the region with other natural resource abundance; and especially the regimes of diurnal tide in large range typically bring huge benefits of economy and environment. With respect to the geo - economic resources, EAs are valuable sea wand gate in coastal Northern Vietnam and have the role in linking Hai Phong city with capital Ha Noi. These are the central area of the economic space in coastal zone of Northern Vietnam and are the centre of the economics system with two corridors Hai Phong - Ha Noi - Nanning and Hai Phong - Ha Noi - Kunming- one economic belt Gulf of Tonkin in the development process of international integration. In particular, they are favorable localities to prioritize development of marine economic sectors and key marine economic zone. Concerning the geo - politic resources, EAs are the development space of residential areas and coastal urbanization, the convergence of many factors that contribute to ensuring national security, support for national sovereignty and interests on the sea. This is also the place where the values of unique indigenous culture are developed and preserved. Trần Đức ThạnhLê Đức AnAs a small island located near the approximately centre of The Gulf of Tonkin, the Bach Long Vi island possesses great values on geo-economic and geo-politic position resources. On the geoeconomic resources, the island is a priority site for the country’s sea-island economy development; a central location in the economic space of the Gulf f of Tonkin; belonging directly to Haiphong city-the biggest economic centre in the Northern coastal zone; an advantageous area to develop many marine services such as fishery logiistics, petroleum, tourism, seeking for/and rescue, health, environment, banking and telecom etc. On the geo-politic resources, the island possesses very great values on the determination, enlargement, and guard of national marine sovereignty and benefit; national defense and security concerning the country’s Northern Part; and sea-island culture with the deepfelt love of Vietnam country in the far space resources, ecological and geological wonders which are special resources and have great potential for eco-social development is a very new theme in our country. The investigation and estimation of these resources is content of project “principal investigation and estimation of the space resources, ecological and geological wonders in Vietnamese marine and coastal areas and islands” belonging to the general project “principal investigation and management of marine resources – environment towards 2010, visibility to 2020”. On the theorical and practical bases, this paper identified the resources of space, ecological and geological wonders in Vietnamese marine and coastal areas and islands; determined forthcoming and long-term purposes for investigation and estimation of them. The approaches were orientated such as system; multisectors; sustainable development combined to guarantee for national security, defense and sovereignty at sea; new awareness on the estimation and use of marine resources; service economy; The space resources were proposed to estimate by the criteria as natural space, economical space and political space. The ecological wonders were proposed to estimate by the criteria as biodiversity; aesthetics; unique – specialty - grandiosity; and anticipated values. The geological wonders were proposed to estimate by the criteria as geodiversity; aesthetics; unique – specialty - grandiosity; and anticipated NÓI ĐẦU Đảo Bạch Long Vĩ thuộc thành phố Hải Phòng, nằm trong hệ tọa độ địa lý 20°07'35" và 20°08'36" vĩ độ Bắc và 107°42'20" - 107°44'15" kinh độ Đông. Do có vị trí đặc biệt là một bộ phận của khối nâng nghịch đảo kiến tạo trên nền rift địa phương được hình thành trong Kainozoi sớm tại vùng chuyển tiếp giữa các bể Sông Hồng ở phía Tây Nam, bể Bắc Bộ ở phía Đông Bắc và nhờ có biển tiến sau băng hà lần cuối cùng trong khoảng 18 nghìn năm qua mà Bạch Long Vĩ trở thành hòn đảo xa bờ, đảo duy nhất nằm ở vùng giữa Vịnh Bắc Bộ, hòn đảo tiền tiêu - biên giới ở vùng biển phía Bắc Việt Nam. Chỉ là một đảo nhỏ rộng trên 3 km2, nhưng Bạch Long Vĩ có một vị trí xứng đáng trong hệ thống 2376 hòn đảo ven bờ, đảm trách đầy đủ chức năng của một đơn vị hành chính cấp huyện trong số 10 huyện đảo ven bờ của cả nước. Nhờ vị thế, tài nguyên thiên nhiên tại chỗ đáng kể và tài nguyên vùng biển bao quanh giàu có, đảo đủ điều kiện sinh cư cho một số lượng dân cư nhất định và cố khả năng phát triển kinh tế xã hội to lớn. Vùng biển đảo Bạch Long Vĩ là một vị trí ưu tiên đối với phát triển kinh tế biển - đảo nằm ở trung tâm trong không gian kinh tế Vịnh Bắc Bộ, là địa bàn thuận lợi cho phát triển nhiều loại hình dịch vụ biển như hậu cần nghề cá, dầu khí, du lịch, tìm kiếm cứu nạn và y tế, môi trường, ngân hàng và viễn thông Vùng biển đảo có những giá trị rất lớn và đặc biệt quan trọng về bảo tồn tự nhiên; đảm bảo chủ quyền, lợi ích quốc gia trên biển; an ninh quốc phòng liên quan tới phần phía Bắc của đất nước. Những giá trị này ngày càng được khẳng định, nhất là từ khi Hiệp định phân định ranh giới trên Vịnh Bắc Bộ và Hiệp định đánh cá chung giữa Việt Nam và Trung Quốc trên vịnh đã được ký kết vào năm 2000. Tuy nhiên, việc phát triển dân sinh và kinh tế tại đảo gặp không ít khó khăn do xa đất liền, dễ bị cô lập do chiến tranh, thiên tai và có nhiều yếu tố thiên nhiên khắc nghiệt. Gần đây, cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội sôi động, môi trường tự nhiên và cảnh quan thiên nhiên vùng biển đảo bị thay đổi nhanh chóng, tài nguyên thiên nhiên, đặc biệt là nguồn lợi hải sản và đa dạng sinh học bị suy giảm. Vấn đề phát triển bền vững đang được đặt ra như một yêu cầu tất yếu, đòi hỏi phải hiểu biết một cách đầy đủ, hệ thống về thiên nhiên, tài nguyên và môi trường vùng biển đảo này. Vào trước năm 1975, hoạt động điều tra, nghiên cứu tại vùng biển đảo không nhiều. Trước năm 1954, các chuyên gia người Pháp đã khảo sát trên đảo và đã có một số công bố Hội Lapique và Công ty, 1944 ; Saurin E., 1956 và 1960; Boureau E., 1958. Vào những năm 1959 – 1963, trong chương trình hợp tác điều tra tổng hợp Việt – Trung trên Vịnh Bắc Bộ, vùng biển Bạch Long Vĩ đã được điều tra khảo sát về thủy văn, địa chất, địa hình, sinh vật và ngư trường. Trong những năm 1965 – 1975, do chiến tranh phá hoại của không quân và hải quân Mỹ, các hoạt động điều tra nghiên cứu gần như bị ngưng trệ. Sau khi đất nước thống nhất vào năm 1975, các nhà địa chất đi đã tiên phong khảo sát và nghiên cứu hòn đảo này. Từ khi huyện đảo Bạch Long Vĩ được thành lập theo Nghị định số 15/CP ngày 09/12/1992 của Chính phủ, đảo và vùng biển ven đảo mới được quan tâm nghiên cứu và đánh giá khá đồng bộ về điều kiện tự nhiên, tài nguyên, môi trường và kinh tế - xã hội phục vụ phát triển dân sinh, kinh tế trên đảo, khai thác tiềm năng vùng biển quanh đảo và đặc biệt là góp phần đấu tranh đàm phán về chủ quyền quốc gia trên Vịnh Bắc Bộ. Kể từ đó, đã có một số đề tài, dự án cấp nhà nước thuộc các chương trình nghiên cứu biển chương trình Biển Đông – Hải đảo, Trung tâm KHTN&CN Quốc gia nay là Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam và thành phố Hải Phòng được thực hiện trên vùng biển đảo và một phần các kết quả đã được công bố. Cuốn sách này được biên soạn nhằm tập hợp và hệ thống các tài liệu điều tra, nghiên cứu đã có tại vùng biển đảo Bạch Long Vĩ, chủ yếu được thực hiện trong hai mươi năm qua. Nội dung cuốn sách gồm ba phần. Phần I về điều kiện tự nhiên vùng biển đảo, bao gồm các đặc điểm địa chất, địa hình – địa mạo, khí hậu, hải văn và các hệ sinh thái. Phần II trình bày về tài nguyên thiên nhiên, bao gồm tài nguyên phi sinh vật, sinh vật và tài nguyên vị thế. Phần III trình bày những nét cơ bản về hoàn cảnh kinh tế - xã hội, thực trạng môi trường và định hướng phát triển bền vững tài nguyên và môi trường. Đây cũng là một kết quả của đề tài cấp nhà nước Mã số “Lượng giá kinh tế các hệ sinh thái biển - đảo tiêu biểu phục vụ phát triển bền vững một số đảo tiền tiêu ở vùng biển ven bờ Việt Nam” do Viện Tài nguyên và Môi trường biển chủ trì, thuộc Chương trình Khoa học và Công nghệ trọng điểm cấp Nhà nước Các tài liệu cơ bản nhất được sử dụng biên soạn cuốn sách này là kết quả điều tra nghiên cứu của tập thể tác giả tại Bạch Long Vĩ trong hai mươi năm qua, đồng thời tham khảo các tài liệu có giá trị của các nhà chuyên môn, đặc biệt là của Lê Đức An, TS. Nguyễn Đức Cự, TS. Nguyễn Hữu Cử, TS. Lưu Văn Diệu, Nguyễn Chu Hồi, CN. Lăng Văn Kẻn, Đỗ Văn Khương, Ths. Lê Thị Thanh, Đỗ Công Thung, TS. Đàm Đức Tiến, Ths. Nguyễn Thị Thu, TS. Chu Văn Thuộc, Phạm Thược, Ks. Phạm Quang Trung, Ths. Nguyễn Hữu Tứ, Huy Yết đã được công bố hoặc còn đang được lưu trữ tại Viện Tài nguyên và Môi trường biển, Viện Địa lý, Viện Nghiên cứu Hải sản và một số cơ quan khác. Đặc biệt, cuốn sách đã cập nhật tài liệu mới nhất của đề tài cấp Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam mã số VAST “Nghiên cứu bản chất hoàn lưu ven đảo tại một số đảo tiền tiêu trên Vịnh Bắc Bộ phục vụ bảo vệ môi trường, sinh thái và phát triển bền vững” được thực hiện trong 2012 – 2013. Tập thể tác giả chân thành cảm ơn Nhà xuất bản Khoa học Tự nhiên và Công nghệ, Viện Hàn Lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam đã xét duyệt và hỗ trợ kinh phí xuất bản cuốn sách này. Xin chân thành cảm ơn lãnh đạo Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam qua các thời kỳ, lãnh đạo thành phố Hải Phòng và Sở Khoa học và Công nghệ Hải Phòng, UBND huyện Bạch Long Vĩ, Viện Tài nguyên và Môi trường biển đã hỗ trợ và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho nhiều chuyến điều tra, nghiên cứu tại vùng biển đảo này. Xin được cảm ơn các đề tài, dự án và các đồng nghiệp đã giúp đỡ trong việc thu thập tài liệu và đóng góp ý kiến cho cuốn sách. Đặc biệt, xin chân thành cảm ơn Nguyễn Địch Dỹ đã đọc và góp nhiều ý kiến rất quý báu cho việc biên tập và hoàn thiện cuốn sách. Hy vọng những tư liệu trong cuốn sách ngày càng quý giá theo thời gian, sẽ giúp ích cho công tác nghiên cứu khoa học và giảng dạy, thông tin tuyên truyền tới cộng đồng về biển đảo, góp phần phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh quốc phòng và chủ quyền quốc gia vùng biển đảo Bạch Long Vĩ nói riêng và Vịnh Bắc Bộ nói chung. Hoàn thành nhân dịp kỷ niệm 20 năm thành lập huyện, cuốn sách này là món quà nhỏ kính tặng nhân dân, cán bộ và chiến sĩ huyện đảo Bạch Long Đức An Trần Đức ThạnhNguyễn Hữu CửAccording to the concept by NOWF and UNESCO, geotopes both geomorphological and geological wonders in Vietnam’s sea and islands have been inventoried in coastal lands, coastal water bodies, coastal marine regions and pelagic regions and graded into three levels of international, national and local values. Among the 88 geotopes in the fisrt three regions are 17 geotopes at the international level emanating from peninsulas, coasts, coastal sand dunes, bays, lagoons, and islands. In the pelagic regionsregions, there are 61 geotopes at the international level in the total of 102 geotopes, which are coral platforms, atolls and pyramids forming the two great archipelagoes - Hoang Sa and Truong Sa. Serving as presentatives, the area of Lang Co-Hai Van-Son Cha can be proposed as an international natural heritage site, the Ba Lat river mouth – as an international geosite, the Ly Son island – as a national and international geosite, Nam Yet and Nam Yet-Son Ca atoll – as international geosites as described above. Nghiên cứu kỳ quan địa mạo - địa chất biển đảo Việt Nam dựa trên khái niệm của các tổ chức NOWF và UNESCO. Các kỳ quan được bước đầu kiểm kê theo không gian phân bố, gồm dải ven biển, dải chuyển tiếp lục địa -biển, dải biển nông ven bờ, và vùng biển khơi xa; chúng cũng được sơ bộ phân hạng thành 3 cấp quốc tế, quốc gia và địa phương. Ở đới bờ gồm 3 dải không gian đầu có 88 kỳ quan địa mạo - địa chất, trong đó có 17 kỳ quan cấp quốc tế; đó là các bán đảo, bờ biển, cồn đụn cát, vũng vịnh, đầm phá, đảo và quần đảo ven bờ. Vùng biển khơi xa có đến 102 kỳ quan, trong đó có 61 kỳ quan cấp quốc tế, tạo nên 2 đại kỳ quan thế giới là quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa; đó là những đảo, quần đảo, cao nguyên san hô với những atoll và rạn san hô mặt bàn dạng tháp. Với tư cách là những kỳ quan đại diện, bán đảo Hải Vân - bãi Lăng Cô - đảo Sơn Trà Di sản thiên nhiên thế giới, vùng cửa sông Ba Lạt Danh thắng địa chất thế giới, đảo Lý Sơn Danh thắng địa chất quốc gia-quốc tế, đảo Nam Yết và atoll Nam Yết - Sơn Ca Danh thắng địa chất thế giới đã được mô tả tóm tắt. Trần Đức ThạnhLê Đức AnBach Long Vy is a far coastal island, and alonely locates in the approximate centre of The Gulf of Tonkin. By those, it possess the unique location, becomes an border - outpost in the sea of North Vietnam, and possesses the great advantages for accepting important liabilitis; and realizing many obligations and interests for the purpose of ensuring national security, defense and sovereignty, protecting environment, and developing socio-economy. The combination of shape, size, slope and height of island; and its coastal depth are appropriate to preventing the strong wind and wave; favorable for accessing and building the infrastructure at the island, especially wharf and anchorage sites for two wind seasons alternately. Small in area, but the island has fully responsibility for the functions of an administrative district in Vietnam. By the basic values and advantages on the spacial morphology and structure, and dynamic stability, the island has enough the conditions for considerable inhabitants, and sustainable socio-economic position resources in Vietnam are now considered to be special and important. The saea position resources of Vietnam can be defined as benefits from an area or a site at sea, or in the coastal zone confined to the space of this area or site. They are compsed of biotic and abiotic resources, but mainly of benefits from the sea space and coastal land-forms. The sea space resources are evaluated through three categories, which are the values of physiogeographic positon; the values of geo-economic position, and the values of geo-politic positon. The sea position resources are economically a base for service sector, a key sector of the market oriented economy. These special resources should be taken interest in both theory and application in order for a suitable utization strategy towards the sustainable development. Ở Việt Nam, vị thế đang được coi là một dạng tài nguyên đặc biệt và quan trọng. Tài nguyên vị thế biển Việt Nam là các lợi ích có được từ một khu vực, một nơi ở biển hoặc ven bờ biển, được đặt trong mối quan hệ không gian của khu vực ấy, nơi ấy. Chúng bao hàm cả các hợp phần tài nguyên sinh vật và phi sinh vật, nhưng chủ đạo là các lợi ích có được từ giá ía trị hình thể và vị trí không gian. Giá trị của tài nguyên vị thế biển được đánh giá theo ba tiêu chí Giá trị vị thế địa tự nhiên; giá trị vị thế địa kinh tế và giá trị vị thế địa chính trị. Về phương diện kinh tế, tài nguyên vị thế biển là nền tảng cho phát triển kinh tế dịch vụ - thành phần trọng yếu của nền kinh tế thị trường đã được định hướng. Dạng tài nguyên đặc biệt này cần được quan tầm nghiên cứu, đánh giá về cả phương diện khoa học và ứng dụng, sớm có một chiến lược sử dụng hợp lý theo định hướng phát triển bền Hữu Cử Trần Đức ThạnhNguyễn Vũ TuấnNguyễn Thị Kim AnhThe Tam Giang - Cau Hai coastal lagoon is large in size and characteristic of the horizontal structure of a coastal lagoon geological environmental type with four subtypes. The subtype of lagoonal inlets with a role of connecting with the sea is composed of channels and a seasonally changeable ebb tidal delta in the Thuan An inlet and a flood tidal delta in the Tuhien inlet, to which coastal hazards in from of replacing, closing and opening often occur. The subtype of lagoonal terraces, a part of which is inundated in rainy season and the other has been impounded for farming, and narrow tidal flats along the lagoonal shore. The subtype of lagoonal basins called locally Tam Giang, Dam Sam - An Truyen, Thuy Tu and Cau Hai southward with a total of 216 in area is characteristic of the accumulation of lacustrine fine - grained sediments with a high wetness and organic matter quantity. The last subtype of lagoonal deltas of the O Lau, Hong and Truoi - Dai Giang rivers is composed of river mouths with crossing diversion dams, dammed tributaries and alluvia being used for agriculture, and even populated. Human activities affecting the lagoon are in 4 major forms of the exploitation of catchment areas, multi - use occupation of geological environments, infrastructure development for land and water use and the exploitation of lagoonal living resources. Their impacts, though direct or indirect, on the lagoonal geological environment are to deform its structure, to change the dynamics of geological development, natural resource potentials and, in a way, to intensify the coastal hazard sensitivity due to the unbalance of water and reduction in water exchange with the sea, deterring lagoonal inner circulation of water, materials and nutrients, decrease in lagoonal reservoir and its role of harmonizing floods, groundwater table, geological wonders in Vietnamese marine and coastal areas are abundant and diversity, and belong to three groups such as peninsular, group of island and archipelago; group of waters; and group of stone formation, soft sedimentary bodies and caves. Tens typical geological wonders were presented as 1. Hai Van Peninsular; 2. Cat Ba Island; 3. Bai Tu Long Archipelago; 4. Dong Nai Estuary; 5. Tam Giang – Cau Hai Lagoon; 6. Ha Long Bay; 7. Tuy An stone formation of disk shapes; 8. Lang Co Beach; Sandy Dunes in Binh Tri Thien; reefs and atolls in Spratly Islands. The distinguished aspects of these wonders are of grandiose, aesthetic, unique or typical ones. From them, many wonders possess three or four mentioned distinguished aspects. These geological wonders also manifest geographical zoning and zoneless of marine and coastal processes in Vietnam. Some of them have potential to establish the geoparks in the international or national intrinsic cause of Tu Hien inlet concerns the natural evolution of Tam Giang- Cau Hai Lagoon. Ago, it was the unique inlet and Phu Cam river was a main one running into the south part of lagoon. After that, Phu Cam River was ruined and Huong River running into the North part of lagoon become the largest one. Based on the new dynamical balance, a new inlet named. Thuan An was opened in 1404 in front of Huong River mouth. From that Tu Hien has been being the secondary inlet and sometime is enclosed by sedimentation. The last enclosing time of Tu Hien Inlet has been being from 1994 to now. The direct cause of enclose of Tu Hien Inlet is the weakening of the flow passing the inlet and the violent concentration of longshore sandy drift in the inlet area. The mathematical model calculation shows that a total number of 500 thousands ton sand /year are transported to Tu Hien- Chan May coastal part by the eastsouthward wave longshore drift. Meanwhile a westnorthward local longshore drift transportes about 900 thousands ton sad/year from Chan May site to Tu Hien inlet. This local concentration makes the enclose of Tu Hien Inlet from December to April, generally. It falls in the time of ending the flood flow and changing the prevailing wave direction. After the enclosed time from 6-11 years, the inlet can be opened at the coincidental of a heavy flood and a violent coastal erosion. The opened time of inlet is from 4 - 20 years. From the studied result, the control of Tu Hien inlet enclose can be proposed. Trần Đức ThạnhNguyễn Chu HồiNguyễn CẩnNguyễn Văn TạcCrossing many geological structure zones, the Vietnam coast of over 3200km long is divided into different genetic-dynamic types, which are dalmatic, delta, alluvial plain, tidal accumulation, coral, chemical erosion wave and wave accumulated – abraded types. The shelf topography clearly reflects structural morphological units. They are Cenozoic depressions with great sedimentary thickness, uplifting zones, recent volcanic and eruptive zones, and continental structure margins submerged by transgression and neotectonic faults. However, exogenous relief types are rather common and manifested by submerged deltas, older alluvial plains, gulf accumulative plains, inclined accumulative abrasive plains, older strait delta and older river valleys with features of peripheral sea. The continental slope is not as typical as a classic one, it is a complex of slope, slope pied drowned depressions, old continental shelf and coral plateau. With an area of million sq. km and mean depth of 4300m, they abyssal depression of the Bien Dong Sea South China Sea is characterized by the oceanic crust and formed since OligoceneThe space resources, ecological and geological wonders which are special resources and have great potential for eco-social development is a very new theme in our country. The investigation and estimation of these resources is content of project “principal investigation and estimation of the space resources, ecological and geological wonders in Vietnamese marine and coastal areas and islands” belonging to the general project “principal investigation and management of marine resources – environment towards 2010, visibility to 2020”. On the theorical and practical bases, this paper identified the resources of space, ecological and geological wonders in Vietnamese marine and coastal areas and islands; determined forthcoming and long-term purposes for investigation and estimation of them. The approaches were orientated such as system; multisectors; sustainable development combined to guarantee for national security, defense and sovereignty at sea; new awareness on the estimation and use of marine resources; service economy; The space resources were proposed to estimate by the criteria as natural space, economical space and political space. The ecological wonders were proposed to estimate by the criteria as biodiversity; aesthetics; unique – specialty - grandiosity; and anticipated values. The geological wonders were proposed to estimate by the criteria as geodiversity; aesthetics; unique – specialty - grandiosity; and anticipated values.
Công ước Đa dạng Sinh học CBD, mà Việt Nam là một thành viên, đã công nhận các “biện pháp bảo tồn khu vực hiệu quả khác” hay OECM là phương thức bổ sung cho nỗ lực thành lập các khu bảo tồn chính thức. Điều này mở ra cho Việt Nam một cơ hội mở rộng và liên kết các mạng lưới bảo tồn của quốc gia. Khu bảo tồn tại Việt Nam Hệ thống khu bảo tồn chính thức được công nhận bởi pháp luật Việt Nam là các Khu Rừng Đặc dụng thuộc sự quản lý của Bộ Lâm nghiệp. Theo Quyết định 1171/QĐ năm 1986, các khu bảo tồn này được chia làm các phân hạng I các vườn quốc gia, và II các khu bảo tồn thiên nhiên và các khu văn hóa, lịch sử và môi trường. Trong năm 1986, bảy vườn quốc gia, 49 khu bảo tồn thiên nhiên, và 31 khu văn hóa, lịch sử và môi trường đã được thành lập. Năm 1999, Bộ NNPTNT quyết định mở rộng hệ thống rừng đặc dụng từ 1 triệu lên 2 triệu ha. Điều này dẫn đến việc thành lập 10 vườn quốc gia, 53 khu BTTN, 17 khu bảo tồn loài và sinh cảnh, và 21 khu bảo vệ cảnh quan với tổng diện tích lên đến gần 2,3 triệu ha. Năm 2014, Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định 1976 đặt mục tiêu đến năm 2020 mở rộng tổng diện tích rừng đặc dụng lên 2,4 triệu héc-ta khoảng 7% diện tích tự nhiên của cả nước và đến nay mục tiêu này cũng hầu như đã đạt được. Tuy nhiên, hầu như không có triển vọng nào cho thấy Việt Nam có thể đạt được mục tiêu 17% diện tích đất liền được bảo vệ vào năm 2020 như Mục tiêu Aichi 11 đã xác định Đến năm 2020, ít nhất 17% diện tích trên cạn và vùng nước nội địa, và 10% các vùng biển và ven biển, đặc biệt là các khu vực có tầm quan trọng đặc biệt đối với các dịch vụ hệ sinh thái và đa dạng sinh học, được bảo tồn thông qua hệ thống quản lý hiệu quả và công bằng, đại diện cho các hệ sinh thái, liên kết trong hệ thống các khu bảo tồn và các biện pháp bảo tồn khu vực có hiệu quả khác, được lồng ghép kết nối với các cảnh quan trên cạn và trên biển rộng lớn hơn Một trong những lý do quan trọng của việc giảm tốc độ mở rộng mạng lưới các khu bảo vệ là sự cạnh tranh về đất đai và nguồn nước phục vụ cho một quốc gia đang phát triển với 96 triệu dân. Một vấn đề khác là sự hạn chế của các nguồn tài chính có thể dùng cho việc quản lý các khu bảo vệ. Với nguồn lực mỏng và dàn trải, hiệu quả quản lý thấp, có rất ít động lực cho việc mở rộng thêm quy mô của hệ thống khu bảo vệ. OECM tại Việt Nam Mục tiêu Aichi 11 đề cập đến “biện pháp bảo tồn khu vực hiệu quả khác” OECM. Và để hiểu khái niệm này, IUCN đã cung cấp tư vấn kỹ thuật cho các bên tham gia CBD, trong đó có Việt Nam và từ năm 2018 đã thông qua định nghĩa sau vể OECM Một khu vực địa lý được xác định nhưng không phải là Khu Bảo vệ, được quản trị và quản lý theo những cách thức giúp đạt được các kết quả tích cực và bền vững về mặt bảo tồn nội vi đa dạng sinh học cùng với các chức năng và dịch vụ hệ sinh thái đi cùng và trong một số trường hợp, giúp bảo tồn các giá trị văn hóa, tinh thần, kinh tế xã hội và các giá trị địa phương khác. Các OECM là một cơ hội vừa để công nhận và đóng góp cho việc bảo tồn tính đa dạng sinh học bên ngoài các khu bảo vệ và cũng tạo động lực cho việc bảo tồn bên ngoài các khu bảo vệ thông qua việc xác định và hỗ trợ các OECM. Việt Nam là nơi có nhiều vùng cảnh quan nông nghiệp rộng lớn trong đó có những khu vực có giá trị đa dạng sinh học cao hoặc những khu vực là đối tượng phục hồi hoặc tái thiết lập các chức năng hệ sinh thái tự nhiên nhằm mang lại các lợi ích về khí hậu hoặc đa dạng sinh học. Trong các cảnh quan này, có rất nhiều cơ hội để công nhận các OECM. Ví dụ, một mục tiêu quan trọng của Nghị quyết 120 năm 2017 là giảm việc thâm canh cây lúa nhằm cho phép tái tạo chế độ thủy văn tự nhiên và phục hồi các chức năng hệ sinh thái của Đồng bằng Sông Cửu Long. Điều này mở ra khả năng chuyển đổi hàng trăm nghìn héc-ta ở vùng thượng đồng bằng chuyển đổi từ hai đến ba vụ lúa mỗi năm sang các loại hình sinh kế phù hợp hơn với lũ tự nhiên. Ngoài việc tăng khả năng chống chịu đối với lũ và hạn, việc này còn giúp phục hồi nguồn cá tự nhiên là giúp tăng cường đa dạng sinh học thủy sinh và đa dạng sinh học nông nghiệp. Ở Tây Nguyên, cũng đang cần có sự chuyển đổi từ việc độc canh cây cà-phê sang các hệ thống xen canh nông lâm kết hợp bằng cách trồng xen với cây cà-phê các loài cây ăn quả khác như sầu riêng, chanh leo hay bơ. Tổ hợp cây trồng này mang lại giá trị cao hơn và đòi hỏi ít nước hơn, qua đó giúp giảm thiểu sức ép của việc thiếu nước trong mùa khô. Nếu việc chuyển đổi này được kết hợp với việc bảo vệ nghiêm ngặt các diện tích rừng tự nhiện còn lại, sẽ có nhiều diện tích lớn có tiềm năng được công nhận là OECM do chúng mang lại các lợi ích cả về đa dạng sinh học và kinh tế xã hội. Ngay tại Hà Nội, OECM có thể là cơ hội để bảo tồn Bãi giữa Sông Hồng, một đảo phù sa bồi tụ khoảng 300 ha nằm giữa dòng sông Hồng, như một trong những điểm xanh hiếm hoi còn sót lại của thành phố, là nơi dừng chân quan trọng cho rất nhiều loài chim bộ sẻ di cư trong các đợt di cư mùa thu và mùa xuân. Trước đây, bãi này vẫn thường xuyên bị ngập và chỉ là nơi trồng chuối và một số loại hoa màu. Sau khi chế độ nước bị đập Hòa Bình điều chỉnh, nguy cơ lũ không còn nữa và đây có khả năng trở thành bất động sản có giá trị. Một vào công ty lớn đã quan tâm đến việc phát triển các dự án tại đây, và cùng có thể lồng ghép OECM vào các kế hoạch phát triển này. OECM cũng tạo ra cơ hội để ghi nhận sự đóng góp mà các doanh nghiệp có thể tạo ra cho bảo tồn đa dạng sinh học. TH Milk, một trong những công ty sữa tư nhân lớn nhất Việt Nam, hiện đang có một quỹ đất rất lớn tại tỉnh Nghệ An, trong đó có 50 ha của nhà máy đường NASU. Phần lớn diện tích các hồ nhỏ và trảng cỏ trong nhà máy hiện đang được bảo vệ với mục tiêu tái tạo các sinh cảnh tự nhiên không sử dụng hóa chất, không cắt cỏ, cây gỗ chết được để nguyên trạng. Sự đa dạng về côn trùng và các loài chim đã tăng lên nhanh chóng. Do được bảo vệ tốt, khu vực này có tiềm năng thành nơi để tái thả các loài rùa hoang dã đang bị suy giảm quần thể nghiêm trọng ngoài tự nhiên. Khu vực như vậy cũng có thể đáp ứng các tiêu chí OECM. Xác định OECM IUCN đang xây dựng các hướng dẫn để công nhận và báo cáo các OECM và dự thảo phương pháp luận để xác định các OECM Một OECM cần phải đạt được 4 điều kiện sau. Nó phải nằm ngoài các khu bảo vệ; cần có ranh giới địa lý có thể xác định được, và có cơ quan có thẩm quyền quản trị và chế độ quản lý bền vững; nó phải mang lại kết quả bảo tồn đa dạng sinh học nội vi hiệu quả; và có tiềm năng bảo tồn đa dạng sinh học lâu dài. Các điều kiện này đặt ra tiêu chuẩn tuân thủ cao để tránh việc các khu được quản lý kém với những giá trị đa dạng sinh học hạn chế cũng được coi là OECM. Bảng bên dưới tóm tắt bốn điều kiện, hay bài kiểm tra, và các câu hỏi đi kèm Photo Four conditions of OECM © IUCN Viet Nam Vai trò tiềm năng của Bộ TN&MT Bộ NNPTNT hiện đang quản lý hệ thống rừng đặc dụng quốc gia. Nhưng hệ thống này mới phủ một tỷ trọng nhỏ diện tích đất liền trong khi còn nhiều vùng có giá trị bảo tồn cao chưa được bảo vệ hoặc chưa được công nhận. Là cơ quan chịu trách nhiệm quản lý nhà nước về bảo tồn đa dạng sinh học, Bộ TN-MT được giao trách nhiệm lồng ghép và thúc đẩy bảo tồn đa dạng sinh học bên ngoài hệ thống rừng đặc dụng. Một trong những cách thức mà Bộ TN-MT có thể thực hiện điều này là công nhận và báo cáo về các OECM khi đã có khung pháp lý cần thiết. Luật Bảo vệ Môi trường sửa đổi, sẽ được trình Quốc hội vào năm 2020, và Luật Đa dạng Sinh học là các cơ hội để định dạng OECM trong luật. Khi OECM đã được luật pháp công nhận, Bộ TN-MT sẽ cần phải soạn thảo các văn bản quy định việc thực hiện, điều này có thể được thực hiện bằng cách điều chỉnh các hướng dẫn cho toàn cầu mà IUCN đã soạn thảo cho phù hợp với bối cảnh của Việt Nam. Khi đã có các văn bản hướng dẫn thực hiện OECM, Bộ TN-MT sẽ cần làm việc với các doanh nghiệp, các nhóm nông dân, các ban quản lý rừng, chính quyền các tỉnh và các cá nhân/tổ chức đang quản lý các quỹ đất rộng lớn với các giá trị đa dạng sinh học để xác định các OECM tiềm năng này. Vai trò này sẽ dựa trên thế mạnh của Bộ TN-MT là cơ quan xây dựng và vận hành các tiêu chuẩn, chứ không nhất thiết là với vai trò cơ quan quản lý đất đai. Qua việc thực hiện OECM, Bộ TN-MT có thể tăng cường đáng kể vai trò của mình trong bảo tồn nội vi đa dạng sinh học bằng cách bổ sung thay vì chồng chéo với hoạt động do Bộ NNPTNT đang chịu trách nhiệm. Tiếp cận này sẽ không chỉ giúp Việt Nam đáp ứng các cam kết bảo tồn với cộng đông quốc tế mà còn cho phép bảo vệ thêm những sinh cảnh có tính đa dạng sinh học cao nhất nhưng lại đang bị đe dọa như các vùng núi đá vôi bị cô lập, các vùng đồng cỏ ngập nước theo mua, các bãi bùn ven biển vốn đang có ít đại diện trong hệ thống khu bảo vệ chính thức hiện thời.
Dù cho có hàng chục ngàn định nghĩa khác nhau được gọi theo phương diện rộng hay hẹp về văn hóa nhưng bao trùm tất cả, văn hóa chỉ có giá trị khi đặt trong tương quan với văn minh; đặc biệt là khi chúng ta xem xét chủ thể văn hóa ở đây là cấp độ Văn hóa Quốc gia - Văn hóa Dân tộc. Luận điểm này đưa đến hai kết luận quan trọng. Một là, nội hàm bản chất và toàn vẹn nhất của văn hóa cũng phải đồng dạng với các đặc tính của văn minh hoặc để kiến tạo văn minh. Đó là sự toàn vẹn và đầy đủ của hệ giá trị Chân-Thiện-Mỹ tuần hoàn. Nói cụ thể hơn, văn hóa phải mang tính khoa học, tính thực tế, tính hiệu dụng; văn hóa phải chứa đựng đầy đủ các giá trị đạo đức, luân lý, nhân văn, nhân bản, nhân sinh và kể cả môi sinh; văn hóa phải chứa đựng đầy đủ các giá trị của cái đẹp trong nghệ thuật, giải trí, các hoạt động cộng đồng của con người cho đến mối tương tác của con người với tự nhiên. Các định nghĩa được coi là hẹp của văn hóa hiện nay chỉ bao hàm các hoạt động giải trí nghệ thuật của tính Mỹ, các định nghĩa được coi là rộng hơn thì bao hàm một phần của tính Thiện và rất ít nhắc đến tính Chân, và gần như không đặt các giá trị Chân-Thiện-Mỹ này trong tính tuần hoàn, tương tức như chính sắp đặt tự nhiên của Tạo Hoá. Hai là, nền văn hóa của một quốc gia-dân tộc sẽ được định dạng thành hai nhóm cơ bản Nhóm thứ nhất là Văn hóa kiến tạo văn minh và nhóm thứ hai là Văn hóa hấp thụ văn minh. Và mối quan hệ này là mối quan hệ động, vận động đồng hành với diễn trình phát triển của nhân loại, không hề có văn hóa đứng yên, không thể có văn minh không vận động. Do vậy, mệnh đề căn cốt, cần thiết và có ý nghĩa mang tính sống còn cho quốc gia-dân tộc Việt Nam ở lĩnh vực văn hóa cần phải được đặt trong tương quan với bản đồ và diễn trình phát triển văn minh của nhân loại. Theo đó, văn hóa Việt Nam là thuộc nền văn minh nào, đã từng có khả năng kiến tạo văn minh hay chưa? Tương lai chúng ta muốn nền văn hóa Việt Nam nằm trong một nền văn minh như thế nào, và văn hóa Việt Nam có vai trò gì trong nền văn minh đó – là sáng tạo chủ động hay hấp thụ bị động với văn minh? Quán xét lại toàn bộ lịch sử biện chứng của nhân loại chúng ta có thể thấy rõ, đó chính là quá trình hình thành, va chạm, xung đột, giao thoa, hòa nhập và phát triển của các nền văn hoá, văn minh được dẫn dắt, dẫn đạo chủ lưu bởi các nền văn hóa có khả năng kiến tạo văn minh. Đó là các nền văn hóa mạnh, làm nền tảng cho các nền văn minh lớn. Trong thời tiền sử, các yếu tố địa kinh tế tự nhiên đã định hình nhân loại thành 4 nhóm văn hóa lớn, cũng là bốn nền tảng lớn để định hình phát triển văn minh; đó là văn hóa Nông Nghiệp Đất Liền lúa cạn, lúa nước, Nông Nghiệp Biển, Du Mục Đất Liền, và Du Mục Biển. Ở thời cổ đại, văn hóa và đặc biệt là yếu tố tôn giáo của các dân tộc nòng cốt, đã tạo nên các nền văn minh cổ đại hùng vĩ như văn minh Trung Hoa, Ấn Độ, Lưỡng Hà, Ai Cập, Hy Lạp, La Mã. Từ những cái nôi văn minh cổ đó, các quốc gia-dân tộc khác đã hấp thu, chọn lọc một cách tự nguyện và/hoặc cưỡng chế để định hình nên bản sắc văn hóa riêng của dân tộc mình. Trong thời cận đại và hiện đại, ý thức hệ chính trị một lần nữa phân chia văn minh nhân loại ra làm bốn nhóm tư bản, cộng sản, phát xít, và chủ nghĩa dân tộc không liên kết – không chọn phe ý thức hệ, các hệ giá trị này lại được hấp thụ và chuyển hóa thêm lớp nữa vào văn hóa của các quốc gia hiện đại, để hình thành nên bức tranh tổng thể gồm định dạng văn hóa cơ bản cho 216 quốc gia và vùng lãnh thổ độc lập như hiện nay với 3 nhóm văn minh lớn là văn minh phương Đông, văn minh phương Tây, và văn minh Giao thoa. Hoà chung dòng chảy lịch sử hình thành và phát triển của nhân loại, nền văn hóa quốc gia-dân tộc Việt Nam mang trong mình đặc trưng thích nghi - sinh tồn thụ động; đặc trưng này hay được nhiều học giả gọi là hài hòa thiên về âm tính, nhưng thực ra đó chỉ là sự thích nghi chứ chưa đạt được tính hài hoà; khả năng sinh tồn cho thấy sức mạnh chỉ được biểu hiện rõ ràng trong các điều kiện chiến tranh hay thảm họa ngặt nghèo, tính thụ động là sự miêu tả cụ thể và chính xác hơn cho tính âm. Văn hóa Việt Nam, vì vậy, thuộc nhóm các nền văn hóa hấp thụ văn minh đa lớp từ các lớp văn minh Trung Hoa, Ấn Độ trong thời cổ đại, cho đến các lớp văn hóa khác nhau từ phương Tây trong thời cận đại và hiện đại; và chưa từng là một nền văn hóa có đủ sức mạnh để kiến tạo văn minh. Vậy thì tiếp theo, câu hỏi chiến lược đặt ra ở đây sẽ là liệu chúng ta có nên và có thể tiếp tục xây dựng một nền văn hóa hấp thụ văn minh hay không, nếu có thì nên hấp thụ từ những nền văn minh nào trên thế giới? Hay giờ đây chính là thời điểm lịch sử và chúng ta bắt buộc và chúng ta hoàn toàn có khả năng để định hướng xây dựng một nền văn hóa kiến tạo văn minh? Việc duy trì hình thái văn hóa tiếp thu văn minh hiện nay sẽ trở nên ngày càng khó khăn và kém hiệu quả, thậm chí ngày càng nguy hiểm khi mà hiện trạng của các nền văn minh lớn, các siêu cường, quốc gia chủ chốt trong các nền văn minh đều đang đối mặt với các thách thức hỗn loạn riêng; đồng thời với việc sự va chạm, mâu thuẫn, đối nghịch, xung đột đang ngày càng leo thang giữa các siêu cường, cũng như giữa các nhóm quyền lực cũ với các nhóm quyền lực công nghệ mới. Thực trạng văn hóa – văn minh toàn cầu bị tha hóa trầm trọng chưa từng có, mặc cho các thành tựu phát triển kinh tế, khoa học, công nghệ hào nhoáng bên ngoài; các giá trị đạo đức cơ bản bị băng hoại và không còn nữa, thay vào đó, chỉ là ngôn ngữ bề ngoài để lừa mị và nhân danh các lợi ích mang tính vị kỷ, cục bộ. Thế giới mà nhân loại hiện đang sống đang phải đối mặt với hai đại vấn nạn. Một là, việc chạy theo lợi ích vật chất của con người đã tàn phá nặng nề môi sinh, gây ô nhiễm mỗi trường và biến đổi khí hậu khiến cho ngôi nhà chung Trái Đất của nhân loại trở nên mong manh hơn bao giờ hết. Hai là, chủ nghĩa dân tộc vị kỷ-chủ nghĩa quốc gia vị kỷ đang trỗi dậy, thống trị và hoành hành ở khắp nơi, đặc biệt là các cường quốc; tại mỗi cường quốc, chủ nghĩa vị kỷ lại thúc đẩy tinh thần dân tộc–tinh thần quốc gia theo các hình thái cực đoan khác nhau nhưng tựu chung lại là gây chia rẽ và bất ổn; đồng thời, chủ nghĩa vị kỷ đó đang hành hạ và tha hóa mọi cấp độ dưới quốc gia cá nhân, gia đình, dòng tộc, tổ chức,… cho tới mọi định chế liên quốc gia. Hai đại vấn nạn đó cộng hưởng với nhau tạo thành nguy cơ ngày càng hiện hữu của Tứ Đại Hủy Diệt nạn đói, chiến tranh, bệnh dịch, thiên tai cùng lúc diễn ra để phán xét và tiêu diệt nhân loại. Do vậy, khác với quá khứ, việc duy trình hình thái văn hóa tiếp thụ văn minh trong bối cảnh hiện nay là hết sức khó khăn và nguy hiểm khi mà không còn có một tư tưởng, hệ giá trị, hay mô hình thể chế văn hóa nào có thể trụ vững và thể hiện tính đúng đắn trong bối cảnh thực tại. Đã đến lúc Việt Nam chúng ta cần có đủ khát khao, có đủ dũng khí để dám nghĩ, dám có cảm hứng và động lực, dám dũng cảm thực thi một định vị Văn Hóa Quốc Gia–Văn Hóa Dân Tộc Kiến Tạo Văn Minh, một nền văn minh đủ Minh Triết để nhận diện, đối phó và vượt qua các mối họa chung mà văn minh nhân loại đã tích tụ và đang phải đối mặt đồng thời trong thời điểm lịch sử này. Đó là thử thách lịch sử của quốc gia–dân tộc Việt Nam, đó cũng là Thiên cơ, là Thiên Mệnh lịch sử cho quốc gia–dân tộc Việt Nam. Để chuẩn bị đón nhận Thiên Cơ, Thiên Mệnh nêu trên, Việt Nam cần phải có một sự chuẩn bị đầy đủ để trở thành một cường quốc kiểu mới với các hệ giá trị văn hóa mới nhằm kiến tạo một nền văn minh dẫn dắt toàn nhân loại vượt qua các vấn nạn và khủng hoảng toàn cầu hiện nay; từ đó, đưa nhân loại tiến hóa lên thành một nhân loại thống nhất trong sự siêu việt của Tạo Hoá. Sự chuẩn bị để biến Việt Nam từ một quốc gia ngoại vi trở thành quốc gia trung tâm dẫn đạo nhân loại, từ một nền văn hóa có tính thích nghi-sinh tồn thụ động sang Sáng tạo-Minh triết chủ động, đòi hỏi dân tộc ta phải hiểu rõ và vận dụng được công thức gồm 5 thành tố có mối quan hệ biện chứng qua lại chặt chẽ, tương tức và tuần hoàn ma trận với nhau * ĐỘ LỚN CỦA KHÁT VỌNG QUỐC GIA; * ĐỘNG LỰC QUỐC GIA DÙNG ĐỂ NUÔI DƯỠNG KHÁT VỌNG QUỐC GIA; * TRÍ HUỆ VÀ SỰ MINH TRIẾT CỦA QUỐC GIA; * HỆ SÁCH LƯỢC QUYỀN LỰC QUỐC GIA; * SỰ ĐOÀN KẾT - CỐ KẾT VỮNG BỀN CỦA QUỐC GIA ĐÓ. Bản thân trong mỗi cấu phần lại có 5 cấp độ tiến hóa từ thấp lên cao, nhưng cũng có thể tồn tại theo dạng thức kết hợp, chồng lấn và đan xen. Do vậy, tổ hợp lại các yếu tố để tạo nên một bảng mã gen gốc của một quốc gia vừa là rất đa dạng, vừa là rất rõ ràng rằng bất cứ quốc gia nào cũng có thể trở nên hùng mạnh, có sức mạnh và ảnh hưởng bền vững khi đạt tới và giữ vững một cách hài hòa ở các cấp độ cao nhất của từng cấu phần cấu thành Công thức nêu trên; và ngược lại. Để kiến tạo được một quốc gia có sức mạnh ở cấp độ sức mạnh và tiến hóa cao nhất như trên, quốc gia-dân tộc Việt Nam cần phải được chuẩn bị và cài đặt trong mình mật mã vĩ đại của Tạo Hoá, đó là • Chuẩn bị về Ý chí và Khát vọng vĩ đại–Khát vọng Dẫn đạo Văn Minh nhân loại trở nên đồng nhất, thống nhất và hợp nhất trong thể hoàn hảo, siêu việt. • Chuẩn bị về cái Học–cái Biết toàn diện, bao quát, bao trùm trên bình diện Vũ trụ cho Dân tộc Dẫn đạo; sự hiểu biết thiết yếu bao gồm Vũ Trụ Quan Minh Triết với các Đại Nguyên Lý, Đại Định Luật, Đại Nguyên Tắc nguồn có tính bao quát, bao trùm cho mọi sự vật-hiện tượng trong toàn cõi Vũ Trụ; Địa Sinh Quan Minh Triết để thấu hiểu sự tuần hoàn hoàn mỹ của hệ sinh thái Tinh Cầu để có thể tôn tạo, chữa lành và sống hài hoà, trường xuân – trường thọ tại Trái Đất; Nhân Sinh Quan Minh Triết là hệ giá trị văn hóa mới cho nhân loại bao trùm nhân đạo, nhân tâm, nhân hoà. • Chuẩn bị về Sách lược Lãnh tụ Tâm cho Dân tộc Dẫn đạo; • Chuẩn bị về Mô hình vận hành tối ưu và toàn hảo – Mô hình vận hành Nguồn cho Dân tộc Dẫn đạo; • Chuẩn bị về Phẩm hạnh–Phẩm tính và Năng lực thực thi một cách toàn diện, toàn cầu, toàn hảo, minh triết cho Dân tộc Dẫn đạo. Mật mã Vĩ đại nêu trên chính là ADN của nền văn hóa mới cho Việt Nam, một nền văn hóa mà Việt Nam vì cả thế giới, mà vì thế, mọi nguồn lực tiên tiến và tiến bộ của cả thế giới cũng sẽ cùng với Việt Nam kiến tạo nên một nền văn minh mới, nền Văn minh Tâm-nền Văn minh thống nhất và siêu việt cho loài người. Đây là con đường duy nhất để chống lại tụt hậu và lệ thuộc trong thế giới mới, và cũng là con đường duy nhất để cứu nhân loại khỏi bến bờ hủy diệt. Đây là Thiên Cơ, là Thiên Mệnh của Việt Nam!
Phương Vị Nam Đẩu Tinh Tính Âm Hành Mộc Loại Thiện Tinh Đặc Tính Huynh đệ, phúc thọ Tên gọi tắt thường gặp Cơ Vị Trí Ở Các Cung Miếu địa ở các cung Thìn, Tuất, Mão, Dậu. Vượng địa ở các cung Tỵ, Thân. Đắc địa ở các cung Tý, Ngọ, Sửu, Mùi. Hãm địa ở các cung Dần, Hợi. Ý Nghĩa Thiên Cơ Ở Cung Mệnh Tướng Mạo Cung Mệnh có Thiên Cơ đắc địa thì thân hình cao, xương lộ, da trắng, mặt dài nhưng đầy đặn. Thiên Cơ hãm địa thì thân hình nở nang, hơi thấp, da trắng, mặt tròn. Tính Tình Thiên Cơ đắc địa là người nhân hậu, từ thiện, rất thông minh, khôn ngoan, có óc xét đoán, có nhiều mưu trí, làm việc gì đều có chiến lược, chiến thuật hẳn hoi. Thiên Cơ hãm địa thì có óc kinh doanh, kém thông minh nhưng cũng là người nhân hậu, tài ba. Công Danh Tài Lộc Phúc Thọ Thiên Cơ đắc địa thì được hưởng giàu sang và sống lâu, nhất là khi hội tụ với nhiều cát tinh. Đặc biệt ở Thìn, Tuất thì khả năng nghiên cứu rất cao, nhất là trong ngành chính trị, chiến lược, tham mưu giỏi. Ở Mão Dậu, đồng cung với Cự Môn, người đó có tài tham mưu, kiêm nhiệm cả văn lẫn võ. Tài năng và phú quý rất hiển hách. Riêng với người nữ thì đảm đang, khéo léo, lợi chồng ích con, được hưởng phú quý và phúc thọ song toàn. Nếu Thiên Cơ hãm địa thì lận đận, bôn ba, làm nghề thủ công. Riêng với người nữ thì vất vả, muộn gia đạo, hoặc gặp nghịch cảnh chồng con, đau đớn vì tình. Nếu gặp sát tinh như Hóa Kỵ, Thiên Hình, thì tai họa, bệnh tật rất nặng và chắc chắn không thọ. Những Bộ Sao Tốt Thiên Cơ, Thiên Lương ở Thìn, Tuất Có tài năng, đức độ, mưu trí, phú quý song toàn, có năng khiếu về chiến lược, chính lược. Thiên Cơ, Cự Môn ở Mão Dậu Có tài năng, đức độ, mưu trí, phú quý song toàn, có năng khiếu về chiến lược, chính lược; nhưng nổi bật nhất ở chỗ rất giàu có, duy trì sự nghiệp bền vững. Thiên Cơ, Vũ Khúc, Hồng Loan nữ mệnh Có tài năng về nữ công, gia chánh thợ may giỏi, khéo tay, chân. Thiên Cơ, Thái Âm, Thiên Đồng, Thiên Lương Cơ Nguyệt Đồng Lương Nếu đắc địa cả thì người đó có đủ đức tính của một bậc nho phong hiền triết. Nếu có sao hãm thì thường làm thư lại, công chức. Những Bộ Sao Xấu Thiên Cơ, sát tinh đồng cung Trộm cướp, bất lương. Thiên Cơ, Thiên Lương ở Thìn Tuất gặp Tuần Triệt hay sát tinh Gặp nhiều gian truân, trắc trở lớn trên đường đời, có chí và có số đi tu. Nếu gặp Kình, Đà, Linh, Hỏa hội họp, có Tướng xung chiếu thì là thầy tu hay võ sĩ giang hồ. Ý Nghĩa Thiên Cơ Ở Cung Phụ Mẫu Đơn thủ tại Tỵ, Ngọ, Mùi Cha mẹ khá giả. Đơn thủ tại Hợi, Tý, Sửu Cha mẹ bình thường. Cha mẹ và con không hạp tính nhau. Có cha mẹ nuôi, hoặc cha mẹ chắp nối. Thiên Cơ, Thái Âm đồng cung tại Thân Cha mẹ khá giả. Thiên Cơ, Thái Âm đồng cung tại Dần Cha mẹ khá giả, nhưng sớm có sự xa cách cha mẹ. Thiên Cơ, Thiên Lương đồng cung Cha mẹ giàu sang và sống lâu. Thiên Cơ, Cự Môn đồng cung Cha mẹ xa cách, thiếu hòa khí. Ý Nghĩa Thiên Cơ Ở Cung Phúc Đức Tại Hợi, Tý, Sửu Bạc phúc, họ hàng ly tán. Tại Tỵ, Ngọ, Mùi Có phúc, họ hàng khá giả. Cự Môn, Thiên Lương đồng cung hay Thiên Cơ, Nguyệt tại Thân được hưởng phúc, sống lâu, họ hàng khá giả. Tại Dần không được hưởng phúc đồi dào nên suốt đời chẳng được xứng ý toại lòng. Họ hàng bình thường, người nữ hay trắc trở về chồng con. Ý Nghĩa Thiên Cơ Ở Cung Điền Trạch Thiên Cơ, Thiên Lương đồng cung, Cự Môn, Nguyệt ở Thân hay Cự Môn. Thiên Cơ ở Mão Có nhiều nhà đất. Tại Hợi Tý Sửu Dần Nhà đất bình thường. Tại Tỵ Ngọ Mùi Tự tay tạo dựng nhà đất. Thiên Cơ, Cự Môn tại Dậu Phá sản hay lìa bỏ tổ nghiệp, nhà đất ít. Ý Nghĩa Thiên Cơ Ở Cung Quan Lộc Vì Thiên Cơ chủ sự khéo léo, tinh xảo chân tay, lại có mưu trí, tháo vác, thêm sự khôn ngoan học rộng, cho nên Thiên Cơ ở Quan thường rất có lợi. Thiên Cơ đơn thủ tại Tỵ, Ngọ, Mùi Phú quý. Nhưng không được rực rỡ hiển hách. Nên chuyên về kỹ nghệ, máy móc. Thiên Cơ tại Hợi, Tý, Sửu công danh muộn màng, chật vật. Nên chuyên về doanh thương hay kỹ nghệ. Thiên Cơ, Thiên Lương đồng cung công danh hiện đạt. Bất cứ làm việc gì cũng cẩn thận, hay suy xét xa gần. Thích đàm luận về chính trị và quân sự. Có năng khiếu về chính trị, quân sự, tham mưu, dạy học, thủ công, doanh thương, kỹ nghệ, cơ khí. Đây là bộ sao đa nghệ nhất. Thiên Cơ, Cự Môn đồng cung Được hưởng phú quý vững bền. Có nhiều mưu trí và rất ưa thích máy móc. Thiên Cơ, Thái Âm ở Dần, nên chuyên về y khoa hay sư phạm. Buôn bán cũng phát đạt. Nhưng muộng màng và gặp nhiều trở ngại. Thiên Cơ, Thái Âm ở Thân, nên chuyên về y khoa hay sư phạm. Buôn bán cũng phát đạt. Thiên Cơ, Riêu, Tướng Làm bác sĩ rất mát tay. Ý Nghĩa Thiên Cơ Ở Cung Nô Bộc Thiên Cơ, Thiên Lương, Tả Phù, Hữu Bật Có tôi tớ, bạn bè tốt, hay giúp đỡ mình, có công lao với mình. Ý Nghĩa Thiên Cơ Ở Cung Thiên Di Tại Tỵ, Ngọ, Mùi hay Cơ Lương đồng cung hay Cơ Nguyệt đồng cung ở Thân nhiều may mắn về buôn bán ở xa, được quý nhân phù trợ, trong số đó có người quyền quý Lương hay chính vợ Nguyệt giúp đỡ mình rất nhiều. Thiên Cơ, Cự Môn Cũng giàu nhưng bị tai tiếng, khẩu thiệt vì tiền bạc. Tại Hợi, Tý, Sửu Bất lợi khi xa nhà. Thiên Cơ, Tả Phù, Hữu Bật Được người giúp đỡ. Ý Nghĩa Thiên Cơ Ở Cung Tật Ách Sao Thiên Cơ tượng trưng cho bệnh ở ngoài da, bệnh tê thấp, hạ bộ, chân tay bị yếu gân, da có bớt, tỳ vết, có sẹo, dễ bị tai nạn xe cộ, hoặc bị tai nạn đi đường, khó ngủ, hoặc nằm mà đầu óc hay phải suy tính, dễ bị lao tổn đến sức khỏe, hệ thống thần kinh, hệ thống hô hấp, gan, mật. Cự Môn, Thiên Cơ đồng cung Bệnh tâm linh, khí huyết. Thiên Cơ,Thiên Lương đồng cung Bệnh ở hạ bộ. Thiên Cơ, Thái Âm Có nhiều mụn nhọt. Thiên Cơ, Kình hay Đà Chân tay bị yếu gân. Thiên Cơ, Thiên Khốc, Thiên Hư Bệnh phong đàm, ho ra máu. Thiên Cơ, Thiên Hình, Không Kiếp Bệnh và tai nạn bất ngờ. Thiên Cơ, Tuần, Triệt Cây cối đè phải chân tay, bị thương. Ý Nghĩa Thiên Cơ Ở Cung Tài Bạch Thiên Cơ, Cự Môn hay Thiên Cơ, Lương hay Thiên Cơ ở Ngọ Mùi Phát tài, dễ kiếm tiền và kiếm được nhiều tiền. Riêng với Cự Môn thì phải cạnh tranh chật vật hơn. Ở các cung khác Làm ăn chật vật, thất thường. Duy chỉ có đồng cung với Thái Âm ở Thân thì tự lực lập nên cơ nghiệp khá giả. Nếu có Lộc Mã thì đại phú. Ý Nghĩa Thiên Cơ Ở Cung Tử Tức Thiên Cơ, Lương hay Nguyệt Đức là người có từ 3 đến 5 con. Nếu Thiên Cơ đơn thủ thì ít con. Cự Môn, Thiên Cơ hay Cơ Nguyệt ở Dần Thân Có con dị bào. Thông thường bộ sao Cơ Nguyệt Đồng Lương ở cung Tử là chỉ dấu về con dị bào, dù không đủ bộ. Ý Nghĩa Thiên Cơ Ở Cung Phu Thê Tại Tỵ, Ngọ, Mùi Sớm lập gia đình, vợ chồng lấy nhau lúc còn ít tuổi, hoặc người hôn phối nhỏ tuổi hơn mình khá nhiều. Tại Hợi, Tý, Sửu Vợ chồng khắc tinh, thường chậm gia đạo. Thiên Cơ, Thiên Lương đồng cung Lấy con nhà lương thiện, vợ chồng hòa hợp, thường quen biết trước hoặc có họ hàng với nhau. Gia đạo thịnh. Thiên Cơ, Cự Môn đồng cung Vợ chồng tài giỏi có danh chức. Nhưng vì ảnh hưởng của Cự Môn nên hai người thường bất hòa, thường phải hai lần lập gia đình. Thiên Cơ, Thái Âm ở Dần, Thân Gia đạo tốt. Nhưng trai thì sợ vợ trong trường hợp Thái Âm ở Thân. Thiên Cơ, Thiên Lương, Tả Phù, Hữu Bật Gái kén chồng, trai kén vợ. Cả hai rất ghen tuông. Ý Nghĩa Thiên Cơ Ở Cung Huynh Đệ Cự Môn, Thiên Cơ đồng cung Có anh chị em dị bào, thường là cùng mẹ khác cha. Thiên Cơ đơn thủ Ít anh chị em. Thiên Cơ Khi Vào Các Hạn Thiên Cơ, Thương Sứ Đau ốm, tai nạn, đánh nhau. Thiên Cơ, Tang Khốc Tang thương đau ốm. Thiên Cơ Lương Tang Tuế té cao ngã đau. Thiên Cơ, Khốc Hỏa Hình Trong nhà thiếu hòa khí. Thiên Cơ, Kỵ Hỏa Hình Thương Sứ Tang thương đau ốm, khẩu thiệt quan tụng.
Nhằm đóng góp vào “Hội nghị Diên Hồng về văn hóa” vừa diễn ra tại Hà Nội, Chủ tịch Trung Nguyên Legend - Đặng Lê Nguyên Vũ đã gửi cho chúng tôi bài viết dưới đây từ núi M" đang xem Thiên cơ về việt nam Dù cho có hàng chục ngàn định nghĩa khác nhau được gọi theo phương diện rộng hay hẹp về văn hóa nhưng bao trùm tất cả, văn hóa chỉ có giá trị khi đặt trong tương quan với văn minh; đặc biệt là khi chúng ta xem xét chủ thể văn hóa ở đây là cấp độ Văn hóa Quốc gia - Văn hóa Dân tộc. Luận điểm này đưa đến hai kết luận quan trọng. Một là, nội hàm bản chất và toàn vẹn nhất của văn hóa cũng phải đồng dạng với các đặc tính của văn minh hoặc để kiến tạo văn minh. Đó là sự toàn vẹn và đầy đủ của hệ giá trị Chân-Thiện-Mỹ tuần hoàn. Nói cụ thể hơn, văn hóa phải mang tính khoa học, tính thực tế, tính hiệu dụng; văn hóa phải chứa đựng đầy đủ các giá trị đạo đức, luân lý, nhân văn, nhân bản, nhân sinh và kể cả môi sinh; văn hóa phải chứa đựng đầy đủ các giá trị của cái đẹp trong nghệ thuật, giải trí, các hoạt động cộng đồng của con người cho đến mối tương tác của con người với tự nhiên. Các định nghĩa được coi là hẹp của văn hóa hiện nay chỉ bao hàm các hoạt động giải trí nghệ thuật của tính Mỹ, các định nghĩa được coi là rộng hơn thì bao hàm một phần của tính Thiện và rất ít nhắc đến tính Chân, và gần như không đặt các giá trị Chân-Thiện-Mỹ này trong tính tuần hoàn, tương tức như chính sắp đặt tự nhiên của Tạo Hóa. Hai là, nền văn hóa của một quốc gia-dân tộc sẽ được định dạng thành hai nhóm cơ bản Nhóm thứ nhất là Văn hóa kiến tạo văn minh và nhóm thứ hai là Văn hóa hấp thụ văn minh. Và mối quan hệ này là mối quan hệ động, vận động đồng hành với diễn trình phát triển của nhân loại, không hề có văn hóa đứng yên, không thể có văn minh không vận động. Do vậy, mệnh đề căn cốt, cần thiết và có ý nghĩa mang tính sống còn cho quốc gia-dân tộc Việt Nam ở lĩnh vực văn hóa cần phải được đặt trong tương quan với bản đồ và diễn trình phát triển văn minh của nhân loại. Theo đó, văn hóa Việt Nam là thuộc nền văn minh nào, đã từng có khả năng kiến tạo văn minh hay chưa? Tương lai chúng ta muốn nền văn hóa Việt Nam nằm trong một nền văn minh như thế nào, và văn hóa Việt Nam có vai trò gì trong nền văn minh đó - là sáng tạo chủ động hay hấp thụ bị động với văn minh? Quán xét lại toàn bộ lịch sử biện chứng của nhân loại chúng ta có thể thấy rõ, đó chính là quá trình hình thành, va chạm, xung đột, giao thoa, hòa nhập và phát triển của các nền văn hóa, văn minh được dẫn dắt, dẫn đạo chủ lưu bởi các nền văn hóa có khả năng kiến tạo văn minh. Đó là các nền văn hóa mạnh, làm nền tảng cho các nền văn minh thêm "Ông Vua Xe Hơi" Henry Ford Vua Xe Hơi Henry Ford, Ông Vua Xe Hơi Henry Ford Trong thời tiền sử, các yếu tố địa kinh tế tự nhiên đã định hình nhân loại thành 4 nhóm văn hóa lớn, cũng là bốn nền tảng lớn để định hình phát triển văn minh; đó là văn hóa Nông Nghiệp Đất Liền lúa cạn, lúa nước, Nông Nghiệp Biển, Du Mục Đất Liền, và Du Mục Biển. Ở thời cổ đại, văn hóa và đặc biệt là yếu tố tôn giáo của các dân tộc nòng cốt, đã tạo nên các nền văn minh cổ đại hùng vĩ như văn minh Trung Hoa, Ấn Độ, Lưỡng Hà, Ai Cập, Hy Lạp, La Mã. Từ những cái nôi văn minh cổ đó, các quốc gia-dân tộc khác đã hấp thu, chọn lọc một cách tự nguyện và/hoặc cưỡng chế để định hình nên bản sắc văn hóa riêng của dân tộc mình. Trong thời cận đại và hiện đại, ý thức hệ chính trị một lần nữa phân chia văn minh nhân loại ra làm bốn nhóm tư bản, cộng sản, phát xít, và chủ nghĩa dân tộc không liên kết - không chọn phe ý thức hệ, các hệ giá trị này lại được hấp thụ và chuyển hóa thêm lớp nữa vào văn hóa của các quốc gia hiện đại, để hình thành nên bức tranh tổng thể gồm định dạng văn hóa cơ bản cho 216 quốc gia và vùng lãnh thổ độc lập như hiện nay với 3 nhóm văn minh lớn là văn minh phương Đông, văn minh phương Tây, và văn minh Giao thoa. Hòa chung dòng chảy lịch sử hình thành và phát triển của nhân loại, nền văn hóa quốc gia-dân tộc Việt Nam mang trong mình đặc trưng thích nghi - sinh tồn thụ động; đặc trưng này hay được nhiều học giả gọi là hài hòa thiên về âm tính, nhưng thực ra đó chỉ là sự thích nghi chứ chưa đạt được tính hài hòa; khả năng sinh tồn cho thấy sức mạnh chỉ được biểu hiện rõ ràng trong các điều kiện chiến tranh hay thảm họa ngặt nghèo, tính thụ động là sự miêu tả cụ thể và chính xác hơn cho tính âm. Văn hóa Việt Nam, vì vậy, thuộc nhóm các nền văn hóa hấp thụ văn minh đa lớp từ các nước lớn như văn minh Trung Hoa, Ấn Độ trong thời cổ đại, cho đến các lớp văn hóa khác nhau từ phương Tây trong thời cận đại và hiện đại; và chưa từng là một nền văn hóa có đủ sức mạnh để kiến tạo văn minh. Vậy thì tiếp theo, câu hỏi chiến lược đặt ra ở đây sẽ là liệu chúng ta có nên và có thể tiếp tục xây dựng một nền văn hóa hấp thụ văn minh hay không, nếu có thì nên hấp thụ từ những nền văn minh nào trên thế giới? Hay giờ đây chính là thời điểm lịch sử và chúng ta bắt buộc và chúng ta hoàn toàn có khả năng để định hướng xây dựng một nền văn hóa kiến tạo văn minh? Việc duy trì hình thái văn hóa tiếp thu văn minh hiện nay sẽ trở nên ngày càng khó khăn và kém hiệu quả, thậm chí ngày càng nguy hiểm khi mà hiện trạng của các nền văn minh lớn, các siêu cường quốc, quốc gia chủ chốt trong các nền văn minh đều đang đối mặt với các thách thức hỗn loạn riêng; đồng thời với việc va chạm, mâu thuẫn, đối nghịch, xung đột đang ngày càng leo thang giữa các siêu cường quốc, cũng như giữa các nhóm quyền lực cũ với các nhóm quyền lực công nghệ mới. Thực trạng văn hoá - văn minh toàn cầu bị tha hóa trầm trọng chưa từng có, mặc cho các thành tựu phát triển kinh tế, khoa học, công nghệ hào nhoáng bên ngoài; các giá trị đạo đức cơ bản bị băng hoại và không còn nữa, thay vào đó, chỉ là ngôn ngữ bề ngoài để lừa mị và nhân danh các lợi ích mang tính vị kỷ, cục bộ. Thế giới mà nhân loại hiện đang sống đang phải đối mặt với hai đại vấn nạn. Một là, việc chạy theo lợi ích vật chất của con người đã tàn phá nặng nề môi sinh, gây ô nhiễm môi trường và biến đổi khí hậu khiến cho ngôi nhà chung Trái Đất của nhân loại trở nên mong manh hơn bao giờ hết. Hai là, chủ nghĩa dân tộc vị kỷ-chủ nghĩa quốc gia vị kỷ đang trỗi dậy, thống trị và hoành hành ở khắp nơi, đặc biệt là các cường quốc; tại mỗi cường quốc, chủ nghĩa vị kỷ lại thúc đẩy tinh thần dân tộc–tinh thần quốc gia theo các hình thái cực đoan khác nhau nhưng tựu chung lại là gây chia rẽ và bất ổn; đồng thời, chủ nghĩa vị kỷ đó đang hành hạ và tha hóa mọi cấp độ dưới quốc gia cá nhân, gia đình, dòng tộc, tổ chức,… cho tới mọi định chế liên quốc gia. Hai đại vấn nạn đó cộng hưởng với nhau tạo thành nguy cơ ngày càng hiện hữu của Tứ Đại Hủy Diệt nạn đói, chiến tranh, bệnh dịch, thiên tai cùng lúc diễn ra để phán xét và tiêu diệt nhân loại.
Việt Nam là một quốc gia có nhiều kinh nghiệm ứng phó với thiên tai, đặc biệt là ở vùng ven biển. Bão, triều cường, lũ, sạt lở bờ biển, hạn hán hoặc xâm nhập mặn là những hiện tương quá quen thuộc đối với hầu hết người dân ven biển. Bão và lũ lụt cuốn trôi mùa màng, gây thiệt hại về hoa màu, làm ngập ao hồ, làm thiệt hại gia súc gia cầm, phá hủy nhà cửa và công trình công cộng thiết yếu như bệnh viện và đường điện. Hạn hán và triều cường gây ra xâm nhập mặn, có thể làm giảm độ phì nhiêu của đất trong nhiều năm. Những tác động này gây hậu quả trực tiếp đến việc làm và thu nhập của hàng triệu người. Ví dụ như đợt hạn hán kỷ lục xảy ra ở Đồng bằng Sông Cửu Long vào năm 2016 đã gây ra xâm nhập mặn nghiêm trọng trên 1,4 triệu ha đất canh tác, khiến 22% diện tích lúa ở nơi này không thể trồng trọt được chiếm 12% sản lượng lúa quốc gia và 8% GDP nông nghiệp của đất nước, ảnh hưởng trực tiếp đến sinh kế của khoảng 3 triệu nông dân trồng thị hóa nhanh chóng, tăng trưởng kinh tế và biến đổi khí hậu cũng đồng nghĩa với việc gia tăng rủi ro thiên tai trong tương lai. Ngày càng có nhiều dự án phát triển mới ở các khu vực ven biển trong những vùng có nguy cơ ngập lụt cao vì những nơi an toàn không còn đất trống. Toàn bộ các khu dân cư được xây dựng trên những cồn cát dễ bị xói lở. Ở một số nơi, bờ biển đã lấn vào đất liền tới 300 mét, buộc hàng trăm hộ gia đình phải di dời và thay đổi sinh kế. Mặc dù những hiểm họa tự nhiên đã là nghiêm trọng, nhưng biến đổi khí hậu và áp lực của con người lên các hệ sinh thái tự nhiên càng làm gia tăng những nguy cơ nhiên bất chấp các rủi ro về thiên tai, khu vực ven biển lại là nơi có nhiều ngành kinh tế phát triển mạnh, tạo công ăn việc làm cho một cộng đồng có quy mô dân số ngày càng tăng và đang trên đà đô thị hóa nhanh. Là nơi sinh sống của một nửa dân số cả nước, khu vực ven biển của Việt Nam đang phát triển nhanh chóng, tạo ra nhiều cơ hội việc làm về du lịch, nông nghiệp, công nghiệp và nhiều ngành khác, giúp duy trì sinh kế thịnh vượng, giảm tỷ lệ nghèo và tiếp tục thu hút nhiều người đến các khu vực này. Nếu có thể quản lý được rủi ro tự nhiên ngày càng tăng, vùng này có thể tiếp tục đóng vai trò là động lực mạnh mẽ thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế-xã hội của Việt 200 mét bờ biển ở biển Cửa Đại, gần thị xã Hội An, đã biến mất trong 10 năm quaNguồn Google EarthTừ lâu Chính phủ Việt Nam đã công nhận tầm quan trọng của quản lý rủi ro thiên tai như là một trong những nguyên tắc cơ bản của phát triển kinh tế-xã hội bền vững. Mặc dù đã đạt được nhiều tiến bộ ấn tượng trong việc giảm thiểu và quản lý các rủi ro tự nhiên, xu hướng hiện nay cho thấy vẫn còn nhiều việc phải làm. Thiên tai đang tiếp tục cướp đi sinh mạng và phá vỡ sinh kế, cho thấy sự cần thiết phải có một chiến lược toàn diện để nâng cao khả năng thích ứng cho vùng ven biển. Tuy nhiên, việc thiết kế chiến lược này có thể gặp nhiều khó khăn khi đường bờ biển của Việt Nam kéo dài hơn km và đối mặt với nhiều loại thiên tai khác nhau. Để định hướng các hành động nhằm đạt hiệu quả, báo cáo Tăng cường Khả năng Chống chịu Khu vực Ven biển, một báo cáo mới do Chính phủ Việt Nam, Ngân hàng Thế giới, và Quỹ Toàn cầu về Giảm nhẹ và Phục hồi Thiên tai cùng thực hiện một phân tích sâu và đa ngành về các rủi ro tự nhiên ở khu vực ven biển Việt Nam và đánh giá các hoạt động quản lý rủi ro hiện nay, đề xuất một kế hoạch hành động cụ thể để cân bằng giữa rủi ro và cơ hội phát triển cho vùng ven biển. Những hành động này, nếu được thực hiện một cách quyết liệt, sẽ là cơ hội để tăng cường khả năng thích ứng của người dân ven biển và do đó củng cố sự thịnh vượng của các thế hệ sau. Chính phủ Việt Nam đang có cơ hội hành động quyết liệt để bảo vệ sự phát triển trong tương lai trước những rủi ro thiên tai. Kinh nghiệm và kiến thức chuyên môn về rủi ro thiên tai, cũng như các phương pháp lập kế hoạch dài hạn đã được kiểm chứng, là những yếu tố quan trọng để xây dựng và thực hiện một chiến lược phát triển có khả năng chống chịu. Các đối tác quốc tế của Việt Nam, trong đó có Ngân hàng Thế giới, cam kết tiếp tục hỗ trợ các nỗ lực quan trọng của Chính phủ trong lĩnh vực này.
thiên cơ về việt nam