thiếu quê hương nguyễn tuân

Công ty cổ phần Giáo Dục Việt Nam xin giới thiệu tới các bạn học sinh cùng các bạn bài viết về sự nghiệp và cuộc đời của Điều này được thể hiện rõ qua hai tác phẩm: "Thiếu quê hương" và "Một chuyến đi". Ai đã từng đọc 2 tác phẩm này của Nguyễn Tuân đẽ dàng nhận thấy một Nguyễn Tuân với tình yêu quê hương đất nước thầm kín mà sâu sắc. Đó là tình yêu giang sơn Tổ quốc Nguyễn Tuân sinh năm 1910, mất năm 1987 trong một gia đình nhà Nho khi Hán học đã suy tàn Quê thuộc làng Mộc, nay là phường Nhân Chính, quận Thanh Xuân, Hà nội Sau khi học hết bậc thành chung, ông viết văn và làm báo Cách mạng tháng Tám thành công, ông đến với cách mạng, tự nguyện dùng ngòi bút của mình để phục vụ cuộc kháng chiến Nguyễn Tuân được công ty nước trao tặng ngay Giải thưởng hcm về văn học thẩm mỹ và nghệ thuật vào năm 1996. Một số thành tích tiêu biểu: Một chuyến du ngoạn (1938), Vang bóng một thời (1940), Thiếu quê hương (1940), cái lư đồng đôi mắt cua (1941), Đường vui (1949), Tình chiến dịch (1950), Sông Đà (1960), tp. Hà nội ta đánh Mỹ tốt (1972)… Hình ảnh tác giả Nguyễn Tuân. Ngay từ cơ hội nhỏ, tác giả đã say mê những tập thơ của Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương tốt Nguyễn Khuyến. Ông học đến cuối bậc Thành chung nhưng lại bị đuổi học và không được làm việc ở bất cứ công sở nào trên toàn cõi Đông Dương, vì chưng tham gia vào cuộc bãi khóa chống Sau Cách mạng, Nguyễn Tuân tìm đến dòng sông Đà nơi núi rừng Tây Bắc của Tổ quốc không phải chỉ để "thay đổi thực đơn cho giác quan", càng không phải làm một chuyến "xê dịch" để trốn tránh mặc cảm "thiếu quê hương" như trước Cách mạng. Đến với sông Đà, Nguyễn Tuân muốn khám phá vẻ đẹp của thiên Vay Tiền Online Cấp Tốc 24 24. Nguyễn Tuân bắt đầu cầm bút từ khoảng đầu những năm 30 của thế kỷ XX. Ông không phải là nhà văn thành công ngay từ tác phẩm đầu tay. Từ những ngày bị quản thúc ở Thanh Hóa, ông bắt đầu làm báo, viết văn, làm thông tin viên địa phương cho tờ Trung Bắc tân văn; sáng tác thơ văn gửi cho các tờ An Nam tạp chí, Đông Tây, Tiểu thuyết thứ Bảy với các bút danh Ngột Lôi Quật, Thanh Hà, Nhất Lang, Tuân. Ông đã thử bút qua nhiều thể loại thơ, bút kí, truyện ngắn trào phúng. Đây là những sáng tác không gây được ấn tượng đối với người đọc. Từ năm 1937, Nguyễn Tuân viết khá nhiều truyện ngắn hiện thực trào phúng như Đông phương là Đông phương – Tây phương là Tây phương, Một vụ bắt lươn lậu, Mười năm trời mới gặp cố nhân, Thời sự, đăng trên tờ Đông Dương tạp chí tái bản. Tiếng cười châm biếm của Nguyễn Tuân rất thoải mái, có tính cách dân gian; nhưng những tác phẩm này vẫn không tạo nên được tiếng vang. Phải đến đầu năm 1938, Nguyễn Tuân mới thực sự khẳng định được tài năng của mình qua các tác phẩm Một chuyến đi 1938, Thiếu quê hương 1940, Chiếc lư đồng mắt cua 1941, nhất là tập truyện Vang bóng một thời 1940 – một tác phẩm mà nhà phê bình Vũ Ngọc Phan nhận xét là “một văn phẩm gần tới sự toàn thiện, toàn mĩ”. Trước Cách mạng, sáng tác của Nguyễn Tuân chủ yếu xoay quanh ba đề tài “chủ nghĩa xê dịch”, vẻ đẹp “vang bóng một thời” và đời sống trụy lạc. Cá tính cùng với tâm trạng bất mãn và bất lực trước thời cuộc của Nguyễn Tuân đã khiến ông tìm lối thoát trong cái thú giang hồ, xê dịch. “Chủ nghĩa xê dịch” trở thành một đề tài quen thuộc trong sáng tác trước Cách mạng của Nguyễn Tuân, xuyên suốt qua các tác phẩm Một chuyến đi, Thiếu quê hương, Tùy bút I, Tùy bút II, Một chuyến đi xuất bản năm 1940 tập hợp một loạt bài du kí đăng trên Tiểu thuyết thứ Bảy từ năm 1938 dưới tiêu đề “Cánh đồng ma” tại Hương Cảng. Một chuyến đi khi thì phảng phất chất thơ bay bổng của một tâm hồn nghệ sĩ được thỏa mãn cái thú xê dịch ở cảnh vật và con người cùng với những thanh sắc mới lạ nơi đất khách, lúc thì lại đậm chất văn xuôi trần trụi, lạnh lùng khi phơi bày không che đậy cái sự thật đầy mỉa mai, chua chát “những khách tài tình” chẳng qua cũng là những kẻ ích kỷ, nhỏ nhen, phàm tục khi hết tiền, hết rượu. Những trang đặc sắc nhất củ Một chuyến đi là những trang ghi lại một cách tài hoa, sắc sảo và chân thực một số nét riêng của cảnh vật cùng với phong tục trong sinh hoạt con người trên đất Hương Cảng. Có thể nói, với tác phẩm này, Nguyễn Tuân đã phát hiện và khẳng định được tài năng và phong cách của mình – một ngòi bút sử dụng thể tùy bút – du kí “hết sức phóng túng, lấy cái “tôi” của mình làm nhân vật trung tâm. Một cái tôi xê dịch và hưởng lạc, coi cuộc đời chỉ như một trường du hí. Một lối văn đã tìm đúng được cái giọng riêng của nó khi thì trang nghiêm cổ kính, khi thì đùa cợt, bông phèng, khi thì thánh thót trầm bổng, khi thì xô bồ bừa bãi như được ném ra trong một cơn say chếnh choáng, khinh bạc, nhưng bao giờ cũng rất đỗi tài hoa. Đó là văn của một con người hoài nghi tất cả, chỉ tin ở cái vốn tình cảm, ý nghĩ, cái kho cảm giác linh tinh những sắc sảo, tài hoa của mình, tích lũy được trên đường giang hồ xê dịch”. Chủ nghĩa xê dịch được Nguyễn Tuân chọn làm đề tài cho tiểu thuyết Thiếu quê hương đăng nhiều kì trên báo Hà Nội tân văn từ ngày 2-1-1940, nhà xuất bản Anh Hoa – Hà Nội in năm 1943, vì kiểm duyệt Pháp cắt bỏ hai chữ Thiếu. Đến tác phẩm này, chủ nghĩa xê dịch mới được Nguyễn Tuân thể hiện tập trung và nhất quán. Nguyễn Tuân đã lấy câu nói “Ta muốn sau khi ta chết đi có người thuộc da ta làm chiếc va li” của Paul Morand làm đề từ cho cuốn sách của mình. Tác phẩm viết về một nhân vật có tên là Bạch, một người mắc bệnh xê dịch, luôn luôn thèm đi và chỉ có đi mới cảm thấy mình đang sống. Với Bạch “Đi, tức là tất cả. Đi, tức là hạnh phúc. Tất cả thèm thuồng, ham muốn, hăm hở của Bạch đều quay về một mối, một ý đi. Còn bao nhiêu cái khác, Bạch vui lòng để phần, để dành cho người xung quanh. Riêng đối với chàng, những dục vọng và danh phận, những bổn phận và tình đối với đất cát quê nhang, những phụng sự về nghệ thuật, những vui sống trong kiến thiết, nhất nhất chàng đều chểnh mảng cả”. Bạch đi không cần mục đích, chỉ cốt là được “lăn cái vỏ mình” mãi mãi trên trái đất, đi để “thay thực đơn cho giác quan”. Chủ nghĩa xê dịch vốn là một thứ lí thuyết của phương Tây được Nitsơ, Giđơ, PônMo răng,… đề xướng, chủ trương đi không cần mục đích, không cần nơi đến, chỉ cốt luôn thay đổi chỗ để tìm cảm giác mới lạ và thoát li mọi trách nhiệm đối với gia đình và xã hội. Xét đến cùng, đó là sự thể hiện chủ nghĩa cá nhân bế tắc và cực đoan, phản ứng lại trật tự xã hội đương thời một cách vô trách nhiệm, muốn thoát ra ngoài mọi ràng buộc của những nguyên tắc đạo đức, luân lí ở đời, từ chối, rũ bỏ mọi trách nhiệm, bổn phận đối với gia đình, xã hội, quê hương, đất nước. Đọc Thiếu quê hương, có thể thấy, Nguyễn Tuân không phải là một tín đồ tuyệt đối trung thành với chủ nghĩa xê dịch. Nhân vật Bạch chứa đựng nhiều mâu thuẫn. Khi thì Bạch đầy hào hứng cho rằng “Sao lại đem cái việc xê dịch ra mà dùng làm một phương tiện để mong tới một kết quả nào …. Sao lại không lấy nguyên cái việc được đi là một cái thú ở đời rồi?”; nhưng đến khi đứng trước hình ảnh một đoàn hướng đạo sinh lên đường thì chàng lại chua chát thốt lên “Người ta biết người ta chống gậy lên đường để làm gì. Người ta đi để vui vẻ làm việc mỗi khi phải ngừng chân cắm lều trại, đốt lửa trên một khoảng đất nào. Ta đi để mà đau khổ cả lúc đi lẫn lúc nghỉ, ới ta ơi là ta ơi!”. Có lúc, Bạch quả quyết “Phải gây nên những thứ đoạn tuyệt – đoạn tuyệt với vợ con, với nhà, với quê hương bản quán”; nhưng lúc khác lại sống trong dằn vặt “Ngồi trên một con tàu mà cứ phải lo nghĩ băn khoăn về một người có quyền nhớ mình, có quyền buồn bã vì mình và nếu người li phụ ấy lại ốm tương tư nữa thì bao nhiêu trách nhiệm sẽ đổ lên đầu tên lữ khách đã phạm vào cái tội lãng mạn thèm nhớ một con đường dài, mơ tưởng đến một vùng nước rộng”. Bạch nhiêu khi lên giọng phụ họa theo triết lí siêu nhân của Nitsơ, chàng dè bỉu những tình cảm gia đình, khỉnh bỉ những kẻ mềm lòng, bịn rịn khi lên đường cùng với những cuộc tiễn đưa sụt sùi nước mắt. Nhưng trong thực tế, Bạch cũng chẳng tàn nhẫn được với ai. Đối với cha, chàng đành phải thú nhận “Lòng thương cha ai mà không nặng”. Còn đối với Dung – người vợ hiền lành, giản dị, rất mực yêu chồng thương con – cứ mỗi lần Bạch định bới móc một khuyết điểm nào đó của Dung để kiếm cớ li dị, “chỉ có li dị gỡ thoát đời Dung ra khỏi cuộc sống của Bạch thì mới hết bận bịu, thì Bạch mới trở lại bản ngã của Bạch được” thì từ trong sâu thẳm của đáy lòng chàng lại thấy “tội nào của vợ chàng cũng đều có trường hợp giảm đẳng, đều đáng tha thứ cả”, rồi lại tự xấu hổ với chính mình, thấy cái việc bới lông tìm vết của mình “thật không xứng đáng một tí nào với cái vẻ ngây thơ thành thực của vợ chàng”. Té ra, Bạch thực chất cũng là Nguyễn Tuân đấy thôi, “vẫn là một tấm lòng An Nam hoàn toàn” Một chuyến đi, vẫn kính cha, thương vợ, vẫn gắn bó với quê hương mình. Và chính vì có tấm lòng gắn bó với quê hương nên mới thấy thấm thía hơn bao giờ hết sự tù túng của môi trường, hoàn cảnh sống quẩn đọng, trì trệ, buồn tẻ, cái không khí ngột ngạt, bế tắc của xã hội thuộc địa, mới cảm thấy đau khổ khi mình đang sống trên quê hương mà vẫn thấy “thiếu quê hương” trong hoàn cảnh mất nước. Cái làm nên giá trị lâu bền của Thiếu quê hương cũng như nhiều bài tùy bút khác viết về xê dịch của Nguyễn Tuân là những trang viết tài hoa, ghi lại một cách chân thực, tinh tế những cảnh sắc thiên nhiên, phong vị đất nước và những cảnh sinh hoạt với những nét độc đáo khác nhau ở nhiều vùng quê trên đất nước ta. Tập truyện Vang bóng một thời 1940 và tùy bút Tóc chị Hoài 1943… là những tác phẩm viết về đề tài vẻ đẹp “vang bóng một thời”. Xem thêm Giải mã phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân Vang bóng một thời gồm 11 truyện ngắn lần lượt đăng trên tạp chí Tao Đàn và Tiểu thuyết thứ Bảy từ năm 1939, nhà xuất bản Tân Dân, Hà Nội in lần đầu năm 1940. Vang bóng một thời, đúng như cái tên của tác phẩm, viết về “một thời” đã qua nay chỉ còn “vang bóng”. Đó là cái thời thực dân Pháp vừa đặt xong ách đô hộ lên đất nước ta, phong trào Cần Vương đã thất bại, những anh khóa thi nốt khóa thi Hán học cuối cùng, những nho sĩ cuối mùa trở thành lớp người lạc lõng. Khác với Nhà nho, Bút nghiên của Chu Thiên, Lề chõng của Ngô Tất Tố viết về chế độ giáo dục và khoa cử phong kiến, những truyện ngắn của Nguyễn Tuân trong Vang bóng một thời hầu như chỉ tập trung miêu tả những thói quen, cung cách sinh hoạt, những kiểu ăn chơi cầu kì, phong lưu, đài các của những con người tài hoa ấy. Đó là cái thú chơi lan, chơi cúc, uống rượu “thạch lan hương”, đánh bạc bằng thơ và hát ả đào trên sông Hương của những ông Nghè, ông Cống, ông Tú khi thấy mình thành những người thất thế, những kẻ “chọn nhầm thế kỉ với hai bàn tay không có lợi khí mới”, “giữa buổi Tây Tàu nhố nhăng làm lạc mất cả quan niệm cũ, làm tiêu mất bao nhiêu giá trị tinh thần” Hương cuội. Đó là cái thú nhấm nháp chén trà sớm mai với những nghi lễ thiêng liêng; là cái thú vui ngày xuân mời khách đến thưởng hoa nhắm rượu với thứ kẹo ướp hương lan. Đó là thói quen “thắp nến bạch lạp để đọc Đường thi sách thạch bản”, là cái thú đánh bạc bằng thơ dưới trăng rằm trên mặt sông, tiếng ngâm thơ “âm hưởng trên mặt nước lạnh… Như tiếng vang của một hội tao đàn nào”… “Chỗ tiêu cực của tác phẩm là đề lên như là mẫu mực sống lối ăn chơi cầu kì, đài các của lớp quý tộc cũ tuy đã thất thế, đầu hàng nhưng vẫn cố khẳng định bằng nghệ thuật hành lạc hơn đời dù không che giấu được cái hắt hiu, héo úa của những kiếp sống đang tàn tụi. Những cái đáng trân trọng của những con người tài hoa bất đắc chí này là ở chỗ, mặc dù họ buông xuôi bất lực, nhưng vẫn mâu thuẫn sâu sắc với xã hội đương thời, không chịu a dua theo thời, chạy theo danh lợi mà vẫn cố giữ “thiên lương” và “sự trong sạch của tâm hồn”. Họ dường như cố ý lấy cái “tôi” tài hoa, ngông nghênh của mình để đối lập với xã hội phàm tục phô diễn lối sống đẹp, thanh cao của mình như một thái độ phản ứng trật tự xã hội đương thời. Trong số những con người tài hoa ấy, nổi bật lên hình tượng ông Huấn Cao trong Chữ người tử tù, một con người tài hoa, một nhân cách trong sáng, cao cả; mặc dù chí lớn không thành nhưng vẫn coi thường gian khổ, xem khinh cái chết, tư thế vẫn đường hoàng, hiên ngang, bất khuất. Ở con người này, cái tài hoà hợp với cái thiên lương, cái đẹp của tài hoa hoà hợp với cái đẹp của khí phách. Vang bóng một thời thuộc xu hướng thoát li, hoài cổ phát triển khá mạnh mẽ, nhất là từ 1939 đến 1945 trong bộ phận văn học công khai. Chính sách văn hoá “phục cổ” của chính quyền thực dân đã hướng những tâm trạng bế tắc của nhiều cây bút đang hoang mang trước thực tại tìm đường thoát li vào quá khứ. Đó là một trong những lí do để Vang bóng một thời của Nguyễn Tuân cùng với Nhà nho, Bút nghiên của Chu Thiên, Lều chõng của Ngô Tất Tố đã được tặng giải thưởng Alexandre de Rhodes. Vang bóng một thời là tác phẩm kết tinh tài năng của Nguyễn Tuân thời kì sáng tác trước Cách mạng. Nghệ thuật vẽ người, dựng cảnh, tạo dựng những bức tranh có vẻ đẹp héo úa, hắt hiu về một thế giới lụi tàn đã đạt tới trình độ bậc thầy của một ngòi bút tinh tế, tài hoa. Những trang văn viết về vẻ đẹp “vang bóng một thời” của Nguyễn Tuân thấm đượm tinh thần dân tộc, thể hiện khát vọng vươn lên trên môi trường ô trọc, bộc lộ niềm say mê cái tài, cái đẹp và sự nâng niu trân trọng những giá trị văn hoá cổ truyền. Trong thời kỳ khủng hoảng tinh thần, Nguyễn Tuân viết khá nhiều tác phẩm về đề tài đời sống truỵ lạc. Thực ra, ngay từ Một chuyến đi, đã bắt đầu hé lộ một Nguyễn Tuân, một con người lăn lộn nhiều với đời sống truỵ lạc ở những tiệm rượu, tiệm hút, nhà chưa, xóm hát. Vào đầu những năm 30, khi vừa ra khỏi nhà lao Thanh Hoá, Nguyễn Tuân rơi vào tình trạng khủng hoảng sâu sắc về tinh thần và đã lao vào cuộc sống chơi bời truỵ lạc. Ông bộc bạch chân thành “Ở tù về, tôi chỉ thèm chơi”. Một năm trời bị giam cầm “đã tạc nên mặt tôi những nét chắc chắn của hoài nghi”. Hoàn cảnh đó đã đẩy ông vào cuộc sống truỵ lạc như một con người hư hỏng. Vốn sống thực tế trong những ngày tháng ấy đã được nhà văn khai thác dùng làm đề tài cho các tác phẩm Ngọn đèn dầu lạc 1939, Tàn đèn dầu lạc 1941 và Chiếc lư đồng mắt cua 1941. Chiếc lư đồng mắt cua là một tập tuỳ bút được Nhà xuất bản Hàn Thuyên in lần thứ nhất năm 1941. Tác phẩm ghi lại những tâm trạng, cuộc sống của tác giả trong những tháng ngày la cà, lăn lóc ở những nhà hát cô đầu. Tác giả giới thiệu về tập tuỳ bút này “Tập tuỳ bút này không phải là một tập phóng sự về nhà hát và cũng không phải là một thiên nhật kí ghi lại đủ một thời kì khủng hoảng tâm thần. Có lẽ tập vở này cũng lại chỉ là những trang tuỳ bút chép lại một ít tâm trạng tôi cũng lại là những ngày tháng phóng túng hình hài”. Cả tập tuỳ bút Chiếc lư đồng mắt cua là những câu chuyện về nhà hát, về một quãng đời lăn lóc của chính tác giả nơi hàng viện, bên các đào nương, rượu và thuốc phiện cùng những canh hát, cuộc chơi. Viết về đời sống truỵ lạc, Nguyễn Tuân có cách tiếp cận độc đáo của mình. Ông không như các nhà văn hiện thực miêu tả truỵ lạc như mặt trái, một tệ nạn của xã hội; không thi vị hoá truỵ lạc như trong những vần thơ say của một vài thi sĩ lãng mạn; càng không mượn cớ tả thực để khêu gợi trí tò mò tục tĩu như những cây bút tự nhiên chủ nghĩa. Chiếc lư đồng mắt cua giống như một lời thú tội về một quãng đời chơi bời, lêu lổng, bê tha cùng “rượu, trà, thuốc phiện, đàn bà và công nợ”. Cũng có lúc nhân vật “tôi” bừng tỉnh nhận ra để tự thẹn với mình, tự thấy mình trở nên “xấu xa ê chề”, “càng đi sâu vào chốn hàng viện mình càng thấy cái đức làm người của mình mỏng thêm mãi, mình càng thấy thân hình suy kém dần”, nhưng không hẳn là có sự ăn năn hối hận gì sâu sắc. Nhân vật “tôi” nhiều lần muốn làm lại cuộc đời, nhưng không bao giờ thực hiện được. Ấy là vì cái tôi hưởng lạc ích kỷ trong con người anh ta vẫn tồn tại một cách ngang bướng, chưa dứt khoát đoạn tuyệt hẳn với nó, cho nên, hễ gặp cơ hội, hễ có một sự mời chào, một lời đưa đón là anh ta lại quay về với nếp sống cũ. Chiếc lư đồng mắt cua không ca ngợi truỵ lạc, nhưng cũng không thể hiện thái độ phê phán nghiêm khắc lối sống buông thả theo những ham muốn cá nhân ích kỷ, vô trách nhiệm đối với gia đình và xã hội. “Điều Chiếc lư đồng mắt cua muốn nói không phải là bản thân sự truỵ lạc mà là tâm trạng khủng hoảng cực độ của một thanh niên trí thức bất mãn với xã hội, muốn thoát ra khỏi gọng kìm của nó nhưng tự biết không sao thoát ra được, do không đủ ý chí và cũng không biết thoát đi đâu. Anh ta lao vào truỵ lạc để tiêu sầu, lấy cái ồn ào của truy hoan để khuấy động một cách giả tạo những ngày tháng cô quạnh và trống rỗng của mình. Chiếc lư đồng mắt cua có những nhân vật tài hoa nghệ sĩ rất đỗi quen thuộc trong thế giới nghệ thuật của Nguyễn Tuân. Đó là ông Thông Phu và cô Đào Tâm, những con người tài hoa, tài tử, dẫu phải sống trong môi trường bê tha, truỵ l Tài liệu "Nguyễn tuân và quá trình hiện đại hoá xã hội việt nam thế kỷ xx trường hợp thiếu quê hương" có mã là 452096, file định dạng doc, có 6 trang, dung lượng file 63 kb. Tài liệu thuộc chuyên mục Tài liệu phổ thông > Ngữ văn > Ngữ Văn Lớp 12. Tài liệu thuộc loại ĐồngNội dung Nguyễn tuân và quá trình hiện đại hoá xã hội việt nam thế kỷ xx trường hợp thiếu quê hươngTrước khi tải bạn có thể xem qua phần preview bên dưới. Hệ thống tự động lấy ngẫu nhiên 20% các trang trong tài liệu Nguyễn tuân và quá trình hiện đại hoá xã hội việt nam thế kỷ xx trường hợp thiếu quê hương để tạo dạng ảnh để hiện thị ra. Ảnh hiển thị dưới dạng slide nên bạn thực hiện chuyển slide để xem hết các lưu ý là do hiển thị ngẫu nhiên nên có thể thấy ngắt quãng một số trang, nhưng trong nội dung file tải về sẽ đầy đủ 6 trang. Chúng tôi khuyễn khích bạn nên xem kỹ phần preview này để chắc chắn đây là tài liệu bạn cần preview Nguyễn tuân và quá trình hiện đại hoá xã hội việt nam thế kỷ xx trường hợp thiếu quê hươngNếu bạn đang xem trên máy tính thì bạn có thể click vào phần ảnh nhỏ phía bên dưới hoặc cũng có thể click vào mũi bên sang trái, sang phải để chuyển nội dung sử dụng điện thoại thì bạn chỉ việc dùng ngón tay gạt sang trái, sang phải để chuyển nội dung slide. Click vào nút bên dưới để xem qua nội dung tài liệu Nguyễn tuân và quá trình hiện đại hoá xã hội việt nam thế kỷ xx trường hợp thiếu quê hương sử dụng font chữ gì?File sử dụng loại font chữ cơ bản và thông dụng nhất Unicode hoặc là TCVN3. Nếu là font Unicode thì thường máy tính của bạn đã có đủ bộ font này nên bạn sẽ xem được bình thường. Kiểu chữ hay sử dụng của loại font này là Times New Roman. Nếu tài liệu Nguyễn tuân và quá trình hiện đại hoá xã hội việt nam thế kỷ xx trường hợp thiếu quê hương sử dụng font chữ TCVN3, khi bạn mở lên mà thấy lỗi chữ thì chứng tỏ máy bạn thiếu font chữ này. Bạn thực hiện tải font chữ về máy để đọc được nội thống cung cấp cho bạn bộ cài cập nhật gần như tất cả các font chữ cần thiết, bạn thực hiện tải về và cài đặt theo hướng dẫn rất đơn giản. Link tải bộ cài này ngay phía bên phải nếu bạn sử dụng máy tính hoặc phía dưới nội dung này nếu bạn sử dụng điện thoại. Bạn có thể chuyển font chữ từ Unicode sang TCVN3 hoặc ngược lại bằng cách copy toàn bộ nội dung trong file Nguyễn tuân và quá trình hiện đại hoá xã hội việt nam thế kỷ xx trường hợp thiếu quê hương vào bộ nhớ đệm và sử dụng chức năng chuyển mã của phần mềm gõ tiếng việt Unikey. Từ khóa và cách tìm các tài liệu liên quan đến Nguyễn tuân và quá trình hiện đại hoá xã hội việt nam thế kỷ xx trường hợp thiếu quê hươngTrên Kho Tri Thức Số, với mỗi từ khóa, chủ đề bạn có thể tìm được rất nhiều tài liệu. Bạn có thể tham khảo hướng dẫn sau đây để tìm được tài liệu phù hợp nhất với bạn. Hệ thống đưa ra gợi ý những từ khóa cho kết quả nhiều nhất là Nguyễn tuân và quá, hoặc là Nguyễn tuân và quá tìm được nội dung có tiêu đề chính xác nhất bạn có thể sử dụng Nguyễn tuân và quá trình hiện, hoặc là Nguyễn tuân và quá trình hiện nhiên nếu bạn gõ đầy đủ tiêu đề tài liệu Nguyễn tuân và quá trình hiện đại hoá xã hội việt nam thế kỷ xx trường hợp thiếu quê hương thì sẽ cho kết quả chính xác nhất nhưng sẽ không ra được nhiều tài liệu gợi có thể gõ có dấu hoặc không dấu như Nguyen tuan va qua, Nguyen tuan va qua trinh, Nguyen tuan va qua trinh hien, Nguyen tuan va qua trinh hien dai, đều cho ra kết quả chính xác. nam và quá xx quê quê hương Nguyễn tuân và kỷ Nguyễn tuân quá việt nam tuân Nguyễn tuân và quá trình hiện đại Nguyễn tuân và quá xx trường Nguyễn tuân và quá trình hội thế kỷ Nguyễn tuân đại hợp và trình Nguyễn trường hoá xã hương việt thiếu Nguyễn tuân và quá trình hiện hiện xã hội thế trình hiện đại hoá hợp thiếu Các chức năng trên hệ thống được hướng dẫn đầy đủ và chi tiết nhất qua các video. Bạn click vào nút bên dưới để xem. Có thể tài liệu Nguyễn tuân và quá trình hiện đại hoá xã hội việt nam thế kỷ xx trường hợp thiếu quê hương sử dụng nhiều loại font chữ mà máy tính bạn chưa có. Bạn click vào nút bên dưới để tải chương trình cài đặt bộ font chữ đầy đủ nhất cho bạn. Nếu phần nội dung, hình ảnh ,... trong tài liệu Nguyễn tuân và quá trình hiện đại hoá xã hội việt nam thế kỷ xx trường hợp thiếu quê hương có liên quan đến vi phạm bản quyền, bạn vui lòng click bên dưới báo cho chúng tôi biết. Gợi ý liên quan "Nguyễn tuân và quá trình hiện đại hoá xã hội việt nam thế kỷ xx trường hợp thiếu quê hương" Click xem thêm tài liệu gần giống Chuyên mục chứa tài liệu "Nguyễn tuân và quá trình hiện đại hoá xã hội việt nam thế kỷ xx trường hợp thiếu quê hương" Tài liệu vừa xem Nguyễn tuân và Nguyễn tuân và quá trình Nguyễn tuân và quá trình hiện đại Nguyễn tuân và quá trình hiện Nguyễn tuân Nguyễn tuân và quá Tags nguyễn tuân nxb hội nhà văn 2006 thiếu quê hương ebook pdf admin Thư Viện Sách Việt Staff Member Quản Trị Viên Như lời người bạn giới thiệu với Bạch từ hôm mách chỗ cửa hàng cần dùng thư ký này cho chàng tìm đến nhà... giết bớt thời gian, mà lãng phí ngày giờ của chàng được thêm ngày nào, đỡ ngày ấy - đúng như thế, cuộc đời ở một cửa hiệu Tây bán máy móc đang vào thời kỳ quảng cáo, thật là nhàn hạ vô cùng. Nơi bàn giấy, chẳng mấy khi Bạch phải dùng đến bút mực. Người loong toong ngày nào cũng lau chùi tủ bóng nhoáng. Cái bồ mây đựng giấy nháp và giấy vụn, chẳng mấy khi đủ rác rưởi để người ta đem đổ cho nó thành hẳn một chuyến. Cuốn sổ xuất nhập hàng hóa vẫn mới xé dùng đến có mấy tờ đầu. Bà đầm chủ hãng, chừng đã tính đến cái nước phải ăn thâm vào vốn trong buổi đầu, phải vui lòng mà kiên nhẫn và chờ một ngày mai mốt nào đấy sẽ có rất nhiều bạn hàng, cũng không cần hỏi han ông thư ký Bạch về sự hàng họ lên xuống ra sao... Thiếu Quê Hương NXB Hội Nhà Văn 2006 Nguyễn Tuân, 397 Trang File PDF-SCAN Link Download Zalo/Viber 0944625325 buihuuhanh Ánh Hồng Điện Biên NXB Văn Hóa 1984 - Cầm Biêu, 162 Trang10/12/2015 Giáo Trình Văn Học Dân Gian Việt Nam - Ts. Lê Hồng Phong, 82 Trang24/01/2014 Của Rơi NXB Phụ Nữ 2004 - Nguyễn Việt Hà, 271 Trang25/02/2015 Chuyện Thăng Chức Của La La NXB Thời Đại 2010 - Lý Khả, 571 Trang07/05/2018 Chuyện Bí Ẩn Thường Ngày NXB Lao Động 2007 - Paul Jennings, 464 Trang24/04/2017 1988 - Tôi Muốn Trò Chuyện Với Thế Giới NXB Lao Động 2013 - Hàn Hàn, 300 Trang31/03/2017 Lỗ Tấn Tạp Văn NXB Giáo Dục 1998 - Lỗ Tấn, 642 Trang10/01/2015 Miền Phù Sa NXB Văn Học 2002 - Hải Đường, 78 Trang15/12/2015 Đêm Chờ Hoa Quỳnh Nở NXB Thanh Niên 2005 - Trần Quang Ngân, 67 Trang18/11/2017 Nếu Biết Trăm Năm Là Hữu Hạn NXB Hội Nhà Văn 2012 - Phạm Lữ Ân, 176 Trang22/03/2017 Tùy Tiện Phóng Hỏa NXB Văn Học 2015 - Mặc Bảo Phi Bảo, 576 Trang20/05/2015 Dương Kỳ Hiệp-Tình Biển Nghĩa Sông NXB Văn Học 2012 - Diệp Hồng Phương, 304 Trang12/11/2017 Những Người Sống Mãi NXB Kim Đồng 2010 - Thép Mới, 352 Trang03/12/2017 Tội Ác NXB Văn Hóa Thông Tin 2009 - Tess Gerritsen, 368 Trang30/03/2017 Cô Gái Đùa Với Lửa NXB Phụ Nữ 2012 - Stieg Larsson, 608 Trang01/04/2017 Share This Page Forums Forums Members Members Menu Sự nghiệp văn chương của Nguyễn Tuân không phải là nhà văn thành công ngay từ những tác phẩm đầu tay. Ông đã thử bút qua nhiều thể loại thơ, bút kí, truyện ngắn hiện thực trào phúng. Nhưng mãi đến đầu năm 1938, ông mới nhận ra sở trường của mình và thành công xuất sắc với các tác phẩm Một chuyến đi, Vang bóng một thời, Thiếu quê hương, Chiếc lư đồng mắt cua... Mời các bạn tham khảo phần 2 cuốn tiểu thuyết Thiếu quê hương của ông. Chủ đề Nguyễn Tuân tiền chiếnThiếu quê hươngTiểu thuyết Nguyễn TuânTiểu thuyết Thiếu quê hươngVăn học Việt Nam Nội dung Text Truyện ngắn - Thiếu quê hương Phần 2 Nguyễn Tuân là gương mặt nhà văn tiêu biểu của nền văn học Việt Nam hiện đại. Với vốn tri thức uyên bác cùng tài năng nghệ thuật bậc thầy, Nguyễn Tuân đã để lại rất nhiều những tác phẩm có giá trị cho nền văn học Việt Nam. Giới thiệu về tác giả Nguyễn Tuân dưới đây sẽ cung cấp thêm những hiểu biết cho người học về tác gia tiêu biểu đang xem Giới thiệu về nguyễn tuân1. Vài nét về tiểu sử con ngườiNguyễn Tuân sinh ngày 10 tháng 7 năm 1910 ở phố Hàng Bạc, Hà Nội trong một gia đình nhà Nho khi Hán học đã suy tàn. Quê ông ở làng Nhân Mục thường gọi nôm là làng Mọc, nay thuộc phường Nhân Chính, quận Thanh Xuân, Hà Nội Thân sinh của nhà văn là cụ Nguyễn An Lan tức cụ Tú Hải Văn, “một nhà nho tài hoa đậu thi khoa Hán học cuối cùng, rồi suốt đời ôm nỗi bất đắc chí trong cảnh đi làm một viên chức nhỏ ở tòa sứ các tỉnh dưới chế độ thuộc địa của Tây”. Ngay từ nhỏ, Nguyễn Tuân “đã được nuôi trong nền văn hóa cổ truyền của dân tộc, với những phong tục nề nếp, với cách ăn ở vui chơi từ một thời xưa đang tàn dần và biến đổi, ngổn ngang vì sự xâm nhập của văn minh máy móc và hàng hóa từ phương Tây ào đến”. Hoàn cảnh gia đình và môi trường ấy đã có ảnh hưởng sâu sắc tới tư tưởng, cá tính và sáng tác của nhà văn sau thiệu về tác giả Nguyễn Tuân- người nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹpNguyễn Tuân tuy quê ở Hà Nội nhưng từ nhỏ ông đã theo gia đình cụ Nguyễn An Lan làm thư kí Tòa sứ sống nhiều năm ở các tỉnh và thành phố miền Trung như Thanh Hóa, Hà Tĩnh, Huế, Quảng Nam, Đà Nẵng, Phú Yên, Khánh Hòa. Chính hoàn cảnh sống của gia đình đã tạo điều kiện cho ông ngay từ thời niên thiếu đã được “xê dịch” qua nhiều nơi. Những vùng đất nói trên, đặc biệt là Thanh Hóa nơi lâu nhất, đã để lại nhiều dấu ấn trong những trang viết về đề tài “chủ nghĩa xê dịch” của Tuân học đến cuối bậc Thành chung tương đương với bậc Trung học cơ sở hiện nay ở thành phố Nam Định, đến năm 1929 thì bị đuổi học và không được nhận vào bất cứ công sở nào vì tham gia vào một cuộc bãi khóa phản đối mấy giáo viên người Pháp nói xấu người Việt Nam. Cách mạng tháng Tám 1945 thành công, Nguyễn Tuân đến với cách mạng và tham gia kháng chiến, trở thành cây bút tiêu biểu của nền văn học mới. Năm 1950, ông được kết nạp vào Đảng cộng sản Đông Dương nay là Đảng Cộng sản Việt Nam. Từ 1948 đến 1958, ông giữ chức Tổng thư kí Hội Văn nghệ Việt Nam. Ông mất ngày 28 tháng 7 năm 1987 tại Hà Quá trình sáng tác và thành tựu văn họca. Thời kì trước Cách mạng Tháng Tám 1945Nguyễn Tuân bắt đầu sáng tác từ những năm 30 của thế kỉ XX. Trước cách mạng sáng tác của ông chủ yếu xoay quanh ba đề tài “chủ nghĩa xê dịch”, vẻ đẹp “vang bóng một thời”, và đời sống trụy lạc. Cá tính cùng với tâm trạng bất mãn và bất lực trước thời cuộc của Nguyễn Tuân đã khiến ông tìm lối thoát trong cái thú giang hồ, xê dịch. “chủ nghĩ xê dịch” trở thành một đề tài quen thuộc trong các sáng tác trước cách mạng của Nguyễn Tuân, xuyên suốt qua các tác phẩm Một chuyến đi, Thiếu quê hương, Tùy bút I, Tùy bút truyện Vang bóng một thời 1940 và tùy bút Tóc chị Hoài 1943… là những tác phẩm viết về đề tài vẻ đẹp “vang bóng một thời”. Vang bóng một thời gồm 11 truyện ngắn lần lượt đăng trên các tạp chí Tao đàn và Tiểu thuyết thứ bảy từ năm 1939, Nhà xuất bản Tân Dân, Hà Nội in lần đầu năm 1940. Vang bóng một thời thuộc xu hướng thoát li, hoài cổ phát triển khá mạnh mẽ, nhất là từ năm 1939 đến 1945 trong bộ phận văn học công Thời kì sau Cách mạng tháng Tám 1945Vào những ngày cuối cùng của chế độ thuộc địa Pháp và Nhật, cũng như nhiều nghệ sĩ lúc bấy giờ, Nguyễn Tuân rơi vào tình trạng khủng hoảng sâu sắc về quan điểm nghệ thuật. Ông không viết được nữa. Chính Cách mạng Tháng Tám đã giúp Nguyễn Tuân thoát khỏi những bế tắc trong cuộc sống và trong sáng tác nghệ thuật, đem đến cho ông một nguồn cảm hứng sáng tạo mới. Nguyễn Tuân đã hồi sinh, say mê trong niềm vui lớn của đất nước. Nguyễn Tuân đến với cách mạng và kháng chiến, hăng hái đi thực tế, dùng ngòi bút để ca ngợi đất nước và con người Việt Nam trong chiến đấu và trong lao động sản xuất. Nếu như nhân vật trung tâm trong tác phẩm trước cách mạng là những ông Nghè, ông Cử, ông Tú, những con người tài hoa bất đắc chí, thì giờ đây, hình tượng chính trong sáng tác của ông là nhân dân lao động và chiến sĩ trên mặt trận vũ trang, những con người bình thường mà vĩ đại Đường vui 1949, Tình chiến dịch 1950, Tùy bút kháng chiến và hòa bình tập I – 1955, tập II – 1956, Sông Đà 1960, Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi 1972,.. đánh dấu những chặng đường mới của Nguyễn Tuân trên con đường nghệ thuật gắn bó với dân tộc, với nhân dân và đất Phong cách nghệ thuậtNguyễn Tuân là nhà văn có phong cách nghệ thuật độc đáo. Môi trường, hoàn cảnh sống và cá tính của Nguyễn Tuân thời kì trước cách mạng đương nhiên đưa ông đến con đường nghệ thuật lãng mạn chủ nhỏ, Nguyễn Tuân được nuôi dưỡng trong nền văn hóa cổ truyền dân tộc với những phong tục đẹp, những nề nếp, cách ứng xử giữa người với người đầy nghi lễ và có văn hóa, với cách ăn ở vui chơi từ một thời xa xưa đang tàn dần do thời thế đổi thay. Chính điều đó đã để lại dấu ấn sâu đậm trong tâm hồn Nguyễn Tuân và đến khi ông cầm bút đã góp phần tạo nên cái nhìn độc đáo của ông đối với con người và cuộc sống. Nguyễn Tuân là người nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái nhìn văn hóa là một nét bền vững của phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân. Trước cách mạng, tuy tự nhìn nhận mình là một kẻ giang hồ, nhưng chỉ khi viết về cái đẹp “vang bóng một thời”, vẻ đẹp của cái xưa cũ, vẻ đẹp của phong cảnh quê hương đất nước, viết về những gì thuộc về dân tộc, ngòi bút ông mới thật sự tài hoa, tinh vi và sâu Tuân là một cây bút tài hoa và uyên bác. Tài hoa trong việc dựng người, dựng cảnh, tài hoa trong việc sử dụng ngôn ngữ nghệ thuật, trong những so sánh, liên tưởng táo bạo, bất ngờ với những hình ảnh đẹp đầy gợi cảm; uyên bác trong việc vận dụng những kiến thức thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau để làm phong phú và giàu có thêm khả năng diễn tả của nghệ thuật văn Tuân là người có cá tính mạnh mẽ, có lối sống tự do phóng túng và sự ý thức sâu sắc về “cái tôi” cá nhân đã khiến Nguyễn Tuân tìm đến thể tùy bút như một điều tất Tuân là một trong những bậc thầy của ngôn ngữ văn xuôi hiện đại. Ông có một kho từ vựng phong phú, có khả năng tổ chức câu văn xuôi giàu giá trị tạo hình, có nhạc điệu và biết “co duỗi nhịp nhàng”.4. Kết luậnVới gần năm mươi năm hoạt động văn học liên tục, bằng ngòi bút đầy tài năng của mình, Nguyễn Tuân đã có những đóng góp to lớn, có một vị trí quan trọng trong lịch sử văn học Việt Nam thúc đẩy thể tùy bút, bút kí văn học đạt tới trình độ nghệ thuật cao; làm phong phong phú thêm ngôn ngữ dân tộc; đem đến cho nền văn xuôi văn Việt Nam hiện đại một phong cách tài hoa và độc nhâncon đườngcon ngườicuộc sốnggia đìnhgiới thiệuhiện đạihiện nayhòa bìnhlao độnglối sốngmôi trườngnguyễn tuânquan điểmquê hươngSông Đàvăn họcvăn minh

thiếu quê hương nguyễn tuân