thơ về nạn đói 1945
- Nạn đói khủng khiếp năm 1945 "Cái đói làm người chết như ngả rạ" - Bản thân Tràng: Nhà nghèo, xấu trai, ế ẩm. Là người dân ngụ cư bỗng dưng lại lấy được vợ, thậm chí có vợ theo không về. -> Chuyện lạ, khiến mọi người vô cùng ngạc nhiên. Và ngay cả Tràng cũng rất ngạc nhiên. => Tình huống truyện độc đáo, vừa lạ, vừa éo le.
Trong nạn đói khủng khiếp năm 1945, Tràng, một chàng trai nghèo khó sống cùng xóm, quyết định kết hôn với người dì hung dữ và cứng đầu. bà cụ làm mẹ tuy trong lòng lo lắng nhưng vẫn lạc quan khuyên con cháu làm ăn. Cuộc sống của anh ấy đã thay đổi rất nhiều kể từ khi anh ấy kết hôn. nhà sạch sẽ ngăn nắp.
Nạn đói năm 1945 đã để lại nỗi ám ảnh trong Kim Lân, ông có viết 'Xóm ngụ cư'. Sauk hi hòa bình lập lại thì Kim Lân in tập 'Con chó xấu xí'(1962). Và tác phẩm 'Vợ nhặt' được xem là một trong những tác phẩm có giá trị trong tập truyện.
Đói ở Thái Bình đói tới Gia Lâm. Khắp đường xa những xác đói rên nằm. Trong nắng lửa, trong bụi lầm co quắp. Giữa đống giẻ chỉ còn đôi hố mắt. Đọng chút hồn sắp tắt của thây ma; Những cánh tay gầy quờ quạng khua khoa. Như muốn bắt những gì vô ảnh, Dưới mớ tóc rối bù và kết bánh, Một làn da đen xạm bọc xương đầu.
nhà thơ nhớ lại những năm tháng khủng khiếp của nạn đói năm 1945. ngày ấy người cha trẻ phải "ngựa khô gầy guộc" mà không đủ ăn. Tuy nhiên, bà đã già yếu và bệnh tật và một mình nuôi các cháu. cái đói, cái chết rình rập nhưng anh vẫn dành hết tình yêu thương
Nạn đói khủng khiếp và dữ dội năm 1945 đã hằn in trong tâm trí Kim Lân - một nhà văn hiện thực có thể xem là con đẻ của đồng ruộng, một con người một lòng đi về với "thuần hậu phong thủy" ấy. Ngay sau cách mạng, ông đã bắt tay viết ngay tiểu thuyết "Xóm ngụ cư".
Vay Tiền Online Cấp Tốc 24 24. Những bài ca dao - tục ngữ về "Nạn đói năm Ất Dậu" Tàu cười, Tây khóc, Nhật lo Tàu cười, Tây khóc, Nhật lo, Việt Nam hết gạo chết co đầy đường Dị bản Tàu cười, Tây khóc, Nhật lo, Việt Nam độc lập chết co đầy đường Khách cười, Tây khóc, Nhật no Việt Nam độc lập nằm co chết đường Đất này đất tổ đất tiên Đất này đất tổ đất tiên Đất này chồng vợ bỏ tiền ra mua Bây giờ Nhật, Pháp kéo hùa Chiếm trồng đay lạc, ức chưa hỡi trời Chém cha lũ Nhật côn đồ Chém cha lũ Nhật côn đồ Bắt người cướp của tha hồ thẳng tay Dân ta trăm đắng ngàn cay Thức ăn chẳng có trồng đay cho người Giời làm chết đói tháng ba Giời làm chết đói tháng ba Người thì bán cửa bán nhà để ăn Người thì bán áo bán khăn Bán đi cho sạch, cốt ăn sống người Người thì bán mâm bán nồi Người thì bán cả đồ chơi trong nhà Người thì bán đất bán nhà Người thì bán cả mâm xà bát hương Người thì bán sập bán giường Có người bán chĩnh làm tương độ chầy Giời ơi đất hỡi có hay? Được mùa chớ phụ ngô khoai Được mùa chớ phụ ngô khoai Đến khi thất bát lấy ai bạn cùng Dị bản Được mùa chớ phụ môn khoai Đến năm Thân, Dậu lấy ai bạn cùng Nạn đói năm Ất Dậu Một nạn đói xảy ra tại miền Bắc trong khoảng từ tháng 10 năm 1944 Giáp Thân đến tháng 5 năm 1945 Ất Dậu làm khoảng từ đến hai triệu người dân chết đói. Nguyên nhân trực tiếp là những hậu quả của chiến tranh tại Đông Dương Các cường quốc liên quan như Pháp, Nhật Bản và cả Hoa Kỳ đã can thiệp vào Việt Nam và gây nhiều tai họa ảnh hưởng đến sinh hoạt kinh tế của người Việt. Những biến động quân sự và chính trị dồn dập xảy ra khiến miền Bắc vốn dĩ đã thiếu gạo nên càng bị đói. Ngoài ra còn có nguyên nhân tự nhiên lũ lụt, thiên tai, bệnh dịch tả.... Người chết vì đói năm Ất Dậu Chú khách Một cách gọi người Hoa sống ở Việt Nam. Từ này bắt nguồn từ chữ "khách trú," cũng gọi trại thành cắc chú. Đay Một loại cây thuộc họ bông gòn, chiều cao từ 2 - 5 m, vỏ cây dùng để làm sợi. Trong Chiến tranh Đông Dương, Pháp và Nhật đã bắt dân ta "nhổ lúa trồng đay" nhằm phục vụ chiến tranh sản xuất quân trang, quân phục, làm sản lượng lương thực bị giảm mạnh, góp phần gây nên nạn đói năm Ất Dậu ở miền Bắc. Cây đay Tháng ba và tháng bảy, tháng tám là hai thời kì giáp hạt trong năm. Mâm xà Loại mâm thờ chân cao, không có nắp. Bình hương Loại lọ bằng gỗ, sành hoặc sứ, thường có hoa văn, để cắm và thắp nhang trên bàn thờ hoặc những chỗ thờ cúng khác. Tùy theo hình dạng mà bình hương cũng gọi là bát hương hoặc nồi hương. Bát hương và cặp lọ trang trí Sập Loại giường không có chân riêng, nhưng các mặt chung quanh đều có diềm thường được chạm trổ. Sập thường được làm bằng gỗ quý, thời xưa chỉ nhà giàu mới có. Cái sập Chĩnh Đồ đựng bằng sành hoặc đất nung, miệng hơi thu lại, đáy thót, nhỏ hơn chum. Xem thêm Cái chum Độ chầy Lần hồi qua ngày. Như độ nhật. Khoai môn Tên một số giống khoai gặp nhiều ở nước ta, cho củ có nhiều tinh bột, ăn được. Có nhiều giống khoai môn như môn xanh, môn trắng, môn tím, môn tía, môn bạc hà, môn sáp, môn sen, môn thơm, môn trốn... mỗi loại có những công dụng khác nhau như nấu canh, nấu chè... Trước đây môn, sắn, khoai, ngô... thường được ăn độn với cơm để tiết kiệm gạo. Cây và củ khoai môn
Nạn đói ở Thái Bình Bóp cổ, moi thức ăn từ miệng người khác Chúng ta có thể tự hào bởi những trang sử hào hùng và kiêu hãnh, nhưng chúng ta cũng không thể quên những đau thương, mất mát của dân tộc mình. Kỳ 1 Những câu chuyện bi thươngTrong Viện Sử học Việt Nam có lưu bức thư của một tác giả nước ngoài là Vespy viết tháng 4/1945 tả về thảm cảnh nạn đói 1945 “Họ đi thành rặng dài bất tuyệt, người nào người ấy rúm người dưới sự nghèo khổ, toàn thân lõa lồ, gầy guộc giơ xương, ngay cả những thiếu nữ đến tuổi dậy thì đáng lẽ hết sức e thẹn cũng thế. Thỉnh thoảng họ dừng lại vuốt mắt cho một người đã ngã và không bao giờ dậy được nữa, hay để lột một miếng giẻ rách không biết gọi là gì cho đúng để che thân người đó. Nhìn những hình người xấu hơn con vật xấu nhất, nhìn thấy những xác chết nằm co quắp cạnh đường chỉ có vài nhành rơm vừa làm quần áo vừa làm vải liệm, người ta thật lấy làm xấu hổ cho cái kiếp con người”. Theo thống kê của Viện Sử học, số người chết trong nạn đói Ất Dậu lên tới 2 triệu người. Nạn đói xảy ra trên diện rộng, từ Quảng Trị trở ra Bắc Kỳ. Mở lại những trang hồ sơ về sự kiện bi thảm ấy, cũng không còn nhiều câu chuyện cụ thể được ghi chép lại. Nạn đói năm Ất Dậu – 1945. Ảnh Võ An Ninh Nạn đói xảy ra trên địa phận tỉnh Thái Bình là khủng khiếp nhất. Cảnh chết đói diễn ra khắp nơi trong tỉnh, nhất là các huyện phía nam. Hàng ngày, từng đoàn người đói rét dắt díu nhau đi lang thang ăn xin rồi chết ở đầu đường xó chợ. Nhiều gia đình chết không còn một ai. Nhiều làng chết đói từ 50 đến 80% dân số. Chỉ trong vòng 5 tháng, số người chết đói trong toàn tỉnh lên đến 28 vạn người, chiếm khoảng 1/4 dân số toàn tỉnh. Chúng ta có thể tự hào bởi những trang sử hào hùng và kiêu hãnh, nhưng chúng ta cũng không thể quên đi những đau thương, mất mát của dân tộc mình. Hiện tại, cũng không mấy người còn hình dung ra những thảm cảnh kinh hoàng 70 năm trước. Mùa thu năm 2014, tôi lên đường tìm lại những dấu tích cũ, những nhân chứng sống của nỗi đau lịch sử đó. Thái Bình giờ thay da đổi thịt, làng quê khang trang như phố thị, người xe nườm nượp, đầy tiếng trẻ nô cười. Có ai ngờ rằng, nơi đây từng là địa ngục trần gian. Khi tôi đặt vấn đề tìm hiểu về những số liệu của thời kỳ đau thương ấy, nhà sử học Đặng Đình Hùng, một nhà nghiên cứu lịch sử tỉnh Thái Bình cho biết, mặc dù sinh sau nạn đói gần 10 năm, nhưng ông vẫn được nghe, được kể rất nhiều về nạn đói. Những câu chuyện, những con số của nỗi đau năm 1945 vẫn luôn ám ảnh ông. Khi vụ mùa gần như mất trắng, cộng thêm thiên tai, vỡ đê, dân Thái Bình rơi vào nạn đói kéo dài từ tháng 8 năm Giáp Thân 1944 sang đến những tháng đầu năm Ất Dậu 1945. Trong khi đáng lẽ phải cứu đói khẩn cấp thì chính quyền phát xít Nhật lại thực hiện chính sách thu mua thóc tạ thời chiến. Họ tỏa về các làng xã thu vét thóc gạo. Vào cuối 1944, khi chiến tranh thế giới thứ 2 đi vào giai đoạn quyết liệt, Nhật – Pháp chuẩn bị chiến tranh, bọn đế quốc càng ráo riết tích trữ các mặt hàng chiến lược, đặc biệt là lương thực thực phẩm. Đến đầu năm 1945, nạn đói bùng nổ khi dân chúng không còn bất cứ cái gì để ăn, thóc gạo cũng hết, ăn sạch cả củ sắn, củ mài, nhặt cỏ rau má ăn, củ chuối cũng đào hết. Những bức ảnh ghi lại thời kỳ đau thương trong lịch sử dân tộc Ảnh Võ An Ninh Thời kỳ đó, không ai còn nghĩ đến ai cả, họ hàng, bố con, anh em bỏ nhau hết, con đến nhà bố thì bố đóng cửa không cho vào, bố đến nhà con thì con không nhận, vì quá đói, sợ đến lại không còn cái gì để ăn. Người ta bắt đầu đổ ra ngoài, tìm mọi cách để giành giật lấy mọi thứ có thể cho vào mồm. Có lẽ không lời nào có thể tả hết được thảm cảnh đó. Lúc cao điểm, ở các con đường, người chết lẫn người sống nằm la liệt, hoặc không thì bò lê bò lết, đói quá không ai còn sức đứng dậy nổi. Rất nhiều trẻ con nằm chết, bởi bố mẹ sinh ra không nuôi nổi đành bế ra đường bỏ. Một cụ già ở xã Tây Lương Tiền Hải, Thái Bình kể rằng, ông nhớ mãi hình ảnh 2 mẹ con nằm ngay bên vệ đường trong lần ông đi mua rượu cho địa chủ, mẹ chết trước, con ánh mắt đờ đẫn cứ nằm trên bụng mẹ bú vào cặp vú, là mẩu da nhỏ dính trên bộ ngực toàn xương xẩu. Cây số 3 trên đường từ Thái Bình đi Hà Nội, nay là một khu vực sầm uất, hàng quán san sát, chỉ có một cột mốc cũ kỹ bên vệ đường. Thời nạn đói xảy ra, ở đó đã từng có hàng vạn người đói rách quằn quại tụ tập ở đây với hy vọng có thể tìm được một con đường sống. Cây số 3 trong nạn đói Ất Dậu 1945 Ảnh Võ An Ninh Câu chuyện được nhà sử học Đặng Đình Hùng ghi chép Có người đàn ông đi làm thuê, bốc vác, ông có mang theo mấy củ khoai cùng với nắm cơm. Gọi là cơm nhưng thực ra là cám trộn với một ít gạo, một ít rau, trấu… làm lương thực ăn dọc đường. Lúc về qua địa phận đó, xung quanh là những con người nằm im bất động, sống hay chết cũng không biết. Mệt quá nên ông đành ngồi lại nghỉ ngơi, vừa mới móc tý lương thực ít ỏi ra thì bất thần những thây ma ngóc đầu dậy, rồi xúm vào vồ lấy nắm cơm. Có một người giật được, cho ngay vào mồm, nhưng chưa kịp nuốt thì đã bị những kẻ khác dùng tay bóp nghẹt cổ họng, thè cả lưỡi và rơi miếng cơm ra. Cả nhóm lại nhảy vào xâu xé cái miếng cơm ít ỏi đó… Nhà sử học Đặng Đình Hùng bên cột mốc số 3 hiện tại, nay là một khu vực sầm uất Bảo tàng tỉnh Thái Bình trông thật khang trang, bề thế. Cạnh đó là những công trình, nhà cửa san sát, những dấu tích cũ cũng đã biến mất. Nhưng cách đây gần 70 năm, ngay cạnh đó là trại tế bần do những thân hào, nghĩa sỹ yêu nước đứng ra thành lập. Họ vận động những nhà giàu có trong vùng quyên góp để cứu đói. Nơi đây, các nghĩa sĩ đã nấu cháo phát chẩn. Dù lượng cháo quá ít ỏi nhưng đó là niềm hy vọng sống nhỏ nhoi của hàng vạn con người đang lay lắt từng ngày. Địa danh từng là trại tế bần Mỗi người được một bát nhỏ, toàn nước cháo loãng, có tý gọi là chất gạo. Nhưng ai nhận được cháo phát chẩn mà ăn ngay tại chỗ thì còn được vào người, được an toàn, chứ chỉ cần bê tô cháo quay ra ngoài, ra khỏi hàng là y như rằng bị cướp. Thậm chí, lúc giằng co bát cháo rơi xuống, có người ngay tức khắc nằm ra để hứng, không hứng được, họ cào cả lớp đất vừa ngấm tý nước gạo cho ngay vào mồm. Có người rách lưỡi, rách họng vì nuốt vội cả mảnh bát vỡ. Vể sau, người ta gọi đùa trại tế bần đó là Nhà máy cháo, ký ức về một thời đau thương của dân tộc.
Ngày đăng 14/02/2016, 0049 Nạn đói năm 1945 TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP TPHCM KHOA TÀI CHÍNH – NGÂN HÀNG Bài thuyết trình tiểu luận MÔN HỌC ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM ĐỀ TÀI NẠN ĐÓI NĂM 1945 LỚP DHTN9CTT TÊN NHÓM NHÓM GVHD NGUYỄN MINH TIẾN LỜI CAM ĐOAN Nhóm chúng em xin cam đoan tiểu luận công trình nghiên cứu riêng chúng em, không chép Nhóm PHẦN MỞ ĐẦU Lý chọn đề tài Chúng ta tự hào lịch sử dân tộc hào hùng kiêu hãnh Nhưng quên đau thương, mát dân tộc Những người sống hạnh phúc hôm không hẳn nhớ tới nỗi khổ nhục kinh hoàng lịch sử dân tộc Việt với triệu đồng bào chết đày đọa đến tận đói Năm đó, 1945, năm Ất Dậu, cách tròn vòng quay 69 năm vũ trụ Ngoại trừ “nghĩa trang người chết đói” nằm khuất ngõ Hà Nội, ngoại trừ vài báo “điểm tin” vào dịp kỷ niệm, ngoại trừ ảnh cụ Võ An Ninh, số phận bi thương hàng triệu người bị bỏ quên Hiện nay, Đất Nước độc lập,tự hạnh phúc,các bạn trẻ sống cơm no áo ấm mà vô tình’ quên lãng nỗi đau không bù đắp Bởi vậy, nhóm xin làm đề tài tiểu nạn đói năm 1945 Bài học bi thương lịch sử cần phải người ghi nhớ Người Nhật sau năm 1945 dạy nhìn vào thất bại Thế chiến thứ để vươn lên Hi vọng qua học lịch sử nạn đói năm 1945, rút điều có ích Mục đích nghiên cứu Chúng em chọn “Nạn đói năm 1945” để hiểu thêm nguyên nhân diễn biến hậu mà nạn đói mang lại Qua giúp giới trẻ thanh-thiếu niên hiểu có lối sống lành mạnh,trân trọng có Nhưng quan trọng hướng tưởng nhớ người chịu nỗi đau dân tộc’ Mong qua bạn có nhìn sâu săc đắn vấn đề hay có chút đọng lại đáng để suy ngẫm Nội dung nghiên cứu Tiểu luận gồm chương, chương trình bày ý cụ thể sau Chương Vài nét khái quát nạn đói năm 1945 Chương Nguyên nhân gây Nạn đói năm 1945 Nguyên nhân tự nhiên gián tiếp Nguyên nhân trực tiếp Nguyên nhân từ phía Pháp Nguyên nhân từ Nhật Hoa Kỳ Chương Thực trạng Nạn đói 1945 Chương Hậu Nạn đói năm 1945 Kết nghiên cứu Qua trình nghiên cứu tìm tòi ta thấy Nạn đói năm 1945 nỗi đau lớn dân tộc mà không quên nhắc đến mang theo nỗi sợ hãi không cho đồng bào nước mà bạn bè Thế Giới Kết luận – Đề xuất Nạn đói năm 1945 để lại cho dân tộc nỗi ám ảnh kinh hoàng’, nỗi đau da diết’ Là Công dân Việt Nam không phép quên thảm họa’ Chúng ta cần phải có ngày kỉ niệm mát để tưởng nhớ những người thương đau để sau cháu thấu hiểu dân tộc,ông bà,cha mẹ trải qua NỘI DUNG Chương 1 VÀI NÉT KHÁT QUÁT VỀ NẠN ĐÓI NĂM 1945 Nạn đói năm Ất Dậu nạn đói xảy miền Bắc Việt Nam khoảng từ tháng 10 năm 1944 đến tháng năm 1945 làm khoảng từ đến triệu người dân chết đói Thi sĩ Bàng Bá Lân ghi lại cảnh chết đói kinh hoàng qua thơ “ĐÓI”như đây “Năm Ất Dậu tháng ba nhớ Giống Lạc Hồng cực trải đau thương! Những thây ma thất thểu đầy đường, Rồi ngã gục không đứng lên vì…đói!” Suốt chiều dài lịch sử, chưa dân tộc Việt Nam phải chịu tai họa thảm khốc có tính cách xã hội nhân văn thế, xét số người chết đói địa bàn qui mô vùng bị tai họa “Khắp đường xá xác đói rên nằm Trong nắng lửa, bụi lầm co quắp, Giữa đống giẻ đôi hố mắt Đọng chút hồn tắt thây ma; Những cánh tay gầy quờ quạng khua khoa Như muốn bắt vô ảnh Dưới mớ tóc rối bù kết bánh, Một da đen xạm bọc xương đầu Răng nhe đầu lâu, Má hóp lại, hằn sâu gớm ghiếc Già trẻ gái trai không phân biệt, Họ giống thây ma, Như xương dính chút da, Chưa chết bốc xa mùi tử khí!” Chương 2 NGUYÊN NHÂN GÂY RA NẠN ĐÓI NĂM 1945 Nguyên nhân tự nhiên gián tiếp - Nguyên nhân tự nhiên, thời tiết yếu tố ảnh hưởng nghiêm trọng đến sản xuất lương thực miền Bắc Thiên tai, lũ lụt, sâu bệnh gây mùa miền Bắc Mùa màng miền Bắc bị hạn hán côn trùng phá hoại, khiến sản lượng vụ đông-xuân từ năm 1944 giảm sụt khoảng 20% so với thu hoạch năm trước Sau lũ lụt xảy làm hư hại vụ mùa nên nạn đói bắt đầu lan dần Mùa đông năm 1944 - 1945 khắc nghiệt thay lại mùa đông giá rét khiến hoa màu phụ mất, tạo yếu tố tai ác chồng chất bối cảnh chiến tranh giới - Bệnh dịch tả lây lan nhanh rộng khắp mùa lũ Có ông nhà giàu làng sai người giúp việc nhà, lấy gạo nấu cháo đến xin ăn múc cho chén cháo đỡ đói Nhưng số người xin ăn đông, tối khuya người đến đập cửa xin ăn Khi nghe tin có nơi người ăn xin khỏe mạnh vào ăn cướp kho lẫm nhà giàu nên từ trở đi, ông phú hộ phải cửa đóng then cài “Họ người quê non nước Việt, Sống cần lao bên ruộng lúa, đồng khoai Lúa xanh rờn nhờ họ đổ mồ hôi, Nước Việt sống mồ hôi họ đổ.” Tại Hà Nội, nhiều xác người chết đói nằm ngổn ngang đường phố Mỗi sáng sớm người ta phải đem xe bò chở xác chết đem chôn vội Có người ăn xin, đói lả phố, đêm đến, nằm dựa lối cửa vào hay bờ tường phố Khủng khiếp thay! Nhiều người sáng sớm vừa mở cửa xác chết đổ kềnh sang bên, có ngã lăn vào phía bên nhà, khiến người nhà kinh hồn khiếp vía! “Thường sớm sớm cửa nhà ngỏ, Rụt rè xem có xác chết chăng! Từng xe bò bánh rít khô khan Mỗi sáng dạo khắp nẻo đường nhặt xác Xác chồng chất lù lù đống rác, Đó thò khô đét bàn chân Hai cánh tay gầy tím ngắt teo răn Giơ chới với níu không khí, Như cầu cứu, vẫy người ý… Có thở tàn thoi thóp chưa thôi, Có tiếng cựa mình, tiếng nấc…Những tròng Nhìn đẫm lệ người chôn người chửa chết! Bốn ngoại ô mở dãy huyệt Được lấp đầy xác chết…thường xuyên Ruồi mây bay rợp miền… Chết! Chết! Chết! Hai triệu người chết!” Chương 4 HẬU QUẢ CỦA NẠN ĐÓI NĂM 1945 * Lịch sử Đảng tỉnh Thái Bình ghi năm 1945 tỉnh có người chết đói, chiếm 25% tổng dân số Nhiều địa phương chết tới 50% dân số xã Tây Lương 67%; Sơn Thọ, Thụy Anh Thái Thụy 79%; xã Thanh Nê Kiến Xương có người chết gần người; xã Tây Ninh Tiền Hải có 171 gia đình chết không ai… * Cuốn Lịch sử tỉnh Hà Nam Ninh xuất năm 1988 ghi Phủ Nghĩa Hưng, Nam Định ngày chết 400 người Huyện Kim Sơn Ninh Bình vụ đói có người chết Trong hộ có hộ chết không người Nam Định chết người; Ninh Bình người, Hà Nam người * Theo giáo sư sử học Văn Tạo - nguyên viện trưởng Viện Sử học nạn đói năm 1945 diễn 32 tỉnh thành cũ từ Quảng Trị trở Từ năm 1990-1995 Viện Sử học với hàng trăm cán nhân viên, có giúp đỡ hàng trăm cộng tác viên tỉnh, thành trợ giúp nhiều giáo sư, tiến sĩ Nhật Bản tiến hành ba đợt điều tra nghiêm túc, tỉ mỉ khoa học 23 điểm đại diện cho tính chất dân cư khác nạn đói Kết trung bình cộng cho thấy tỉ lệ người chết đói địa phương 15% Dân số VN năm 1945 32 tỉnh thành lúc 13 triệu người Con số triệu người chết lần khẳng định Kết Luận Đã đọc nhiều tài liệu nói nạn đói năm 1945, nghe có triệu người chết nạn đói năm đó, hình dung cách đầy đủ chi tiết nạn đói lại khủng khiếp đến Vậy mà lại thật Một thật mà đến người dửng dưng thấy xót xa Tôi thấy trước mắt cảnh người nằm chết co rúm lại mà miệng vương cọng rơm Tôi không khỏi rùng đọc tới chi tiết người ta ăn đất, ăn thứ Ôi, người ta có nắm gạo phải giấu kín đi, phải ngày đêm canh chừng sợ cướp Người ta chạy theo xe ngựa, xe trâu để lượm phân, với mong mỏi có hạt đậu, hạt ngô sót Hễ đường thấy xác chết nằm la liệt, đến không chiếu để chôn Còn cảnh tượng thương tâm hơn, xót xa thế! Mà câu chuyện đâu phải kỷ xa xôi, xảy cách 69 năm Vậy mà sau 69 năm dường quên hẳn Quên có thời kỳ đồng bào đói mà chết Có biết sâu sắc ông cha ta trải qua thấy quí có hôm Một bữa cơm no, bình thường quá, mà mơ ước xa vời người cảnh đói Mới thấy tội ác chiến tranh đáng sợ quá! Đâu thể tính bom đạn, thương vong Nạn đói năm ấy, hậu chất độc da cam niềm đau không bù đắp Con số 10% định xác, thảm họa nạn đói 1945 dùng so sánh với tội ác diệt chủng Người Việt hệ trẻ Việt cần nhìn lại vấn đề cách trân trọng mãi lãng quên nỗi đau dân tộc PHỤ LỤC Phụ lục 1 Đói phải ăn thịt chuột Phụ lục 2 Cảnh thu gom xác người chết Phụ lục 4 người chết gầy trơ xương nằm la liệt Phụ lục 3 Những người chết đói trại Giáp Bát cải táng nghĩa trang Hợp Thiện Hà Nội Phụ lục 5 Núi xương khổng lồ đồng bào ta chết Phụ lục 6 xe kéo xác người chôn tập thể Phụ lục 7 Một góc Khu tưởng niệm triệu đồng bào chết oanh tạc nạn đói năm 1944 – 1945 Phụ lục 8 BIA TƯỞNG NIỆM NẠN NHÂN CHẾT ĐÓI TẠI ĐƯỜNG KIM NGƯU HÀ NỘI Phụ lục 9 CỤ NGÔ TỬ HẠ, ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI KHÓA I CAO TUỔI NHẤT, ĐANG KÉO CHIẾC XE QUYÊN GÓP VÀ PHÂN PHỐI GẠO TRONG NGÀY CỨU ĐÓI Phụ lục 10 LỄ PHÁT ĐỘNG NGÀY CỨU ĐÓI TẠI NHÀ HÁT LỚN HÀ NỘI Phụ lục 11 Người người từ tỉnh lân cận Hà Nội nối đuôi tìm trợ giúp Tại chợ Hàng Da Hà Nội, họ chờ phân phối đồ cứu trợ, nhiều người chưa kịp nhận chết Phụ lục 12 NHỮNG NGƯỜI ĐÓI CƯỚP LẠI THÓC GẠO DO NHẬT CHIẾM, BỊ QUÂN ĐỘI NHẬT HÀNH HUNG 1945 Phụ lục 13 CỐ NGHỆ SĨ - NHIẾP ẢNH GIA VÕ AN NINH TÀI LIỆU THAM KHẢO Bài thơ Đói ’,tập thơ Đói’, thi sĩ Bàng Bá Lân, tháng năm 1957 Nạn đói năm Ất Dậu, 1944-1945,31/12/2013, Bức ảnh nạn đói năm 1945 cố nghệ sĩ Võ An Ninh, Vũ Vũ sưu tầm-nguồn nghệ sĩ Võ An Ninh,11/06/2012, Nạn đói năm 1945 kỳ 1 Thảm cảnh quê nhà, Quang Thiện,01/03/2005, Nạn đói năm 1945 kỳ 2 Dưới đáy Địa Ngục, Quang Thiện, 02/03/2005, MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN PHẦN MỞ ĐẦU 1 Lý chọn đề tài Mục đích nghiên cứu Nội dung nghiên cứu Kết nghiên cứu Kết luận – Đề xuất NỘI DUNG Chương Vài nét khái quát nạn đói năm 1945 Chương Nguyên nhân gây Nạn đói năm 1945 Nguyên nhân tự nhiên gián tiếp Nguyên nhân trực tiếp……………………………………………… Nguyên nhân từ phía Pháp Nguyên nhân từ Nhật Hoa Kỳ Chương Thực trạng Nạn đói 1945………………………………… Chương Hậu Nạn đói năm 1945 …………………………… 12 KẾT LUẬN 13 PHỤ LỤC 14 TÀI LIỆU THAM KHẢO 21 MỤC LỤC 23 [...]... NINH TÀI LIỆU THAM KHẢO 1 Bài thơ Đói ’,tập thơ Đói , thi sĩ Bàng Bá Lân, tháng 5 năm 1957 2 Nạn đói năm Ất Dậu, 1944 -1945, 31/12/2013, 3 Bức ảnh về nạn đói năm 1945 của cố nghệ sĩ Võ An Ninh, Vũ Vũ sưu tầm-nguồn nghệ sĩ Võ An Ninh,11/06/2012, 4 Nạn đói năm 1945 kỳ 1 Thảm cảnh quê nhà, Quang Thiện,01/03/2005, 5 Nạn đói năm 1945 kỳ 2 Dưới đáy của Địa Ngục,... 3 Chương 1 Vài nét khái quát về nạn đói năm 1945 3 Chương 2 Nguyên nhân gây ra Nạn đói năm 1945 Nguyên nhân tự nhiên gián tiếp Nguyên nhân trực tiếp……………………………………………… 5 Nguyên nhân từ phía Pháp 5 Nguyên nhân từ Nhật và Hoa Kỳ 6 Chương 3 Thực trạng của Nạn đói 1945 ……………………………… Chương 4 Hậu quả của Nạn đói năm 1945 …………………………… 8 12 KẾT LUẬN ... cho các tính chất dân cư khác nhau về nạn đói này Kết quả trung bình cộng cho thấy tỉ lệ người chết đói tại các địa phương là 15% Dân số VN năm 1945 tại 32 tỉnh thành lúc đó là trên 13 triệu người Con số 2 triệu người chết một lần nữa được khẳng định Kết Luận Đã từng đọc nhiều tài liệu nói về nạn đói năm 1945, đã từng nghe rằng có hơn 2 triệu người chết vì nạn đói năm đó, nhưng tôi không thể nào hình... điện của Nhật tăng cao Chúng đã lấy ngô, vừng, lạc và cả lúa gạo để thay thế những nhiên liệu này phục vụ mưu đồ phát xít, đẩy người dân vào thảm họa chết đói Chương 3 THỰC TRẠNG NẠN ĐÓI NĂM 1945 Đói từ Bắc Giang đói về Hà Nội, Đói ở Thái Bình đói tới Gia Lâm Rải bên đường những nấm mộ âm thầm Được đánh dấu bằng ruồi xanh cỏ tốt Có nấm mộ quá nông trơ hài cốt, Mùi hôi tanh nồng nực khắp không gian... khăn thêm khi Nhật đảo chánh Pháp vào tháng 3 năm 1945 nên bộ máy chính quyền của Pháp nhanh chóng tan rã Việc tiếp vận và phân phối sau đó càng bị tê liệt Nạn thiếu ăn biến thành nạn đói, đã manh nha từ đầu năm 1944 nay càng thêm trầm trọng Đế quốc Việt Nam do Trần Trọng Kim làm thủ tướng ra chấp chính từ tháng 4 năm 1945 đã cố gắng huy động việc cứu đói cho dân ngoài Bắc nhưng những yếu tố chính... QUẢ CỦA NẠN ĐÓI NĂM 1945 * Lịch sử Đảng bộ tỉnh Thái Bình ghi năm 1945 cả tỉnh có người chết đói, chiếm 25% tổng dân số Nhiều địa phương chết tới trên 50% dân số như xã Tây Lương 67%; Sơn Thọ, Thụy Anh Thái Thụy 79%; xã Thanh Nê Kiến Xương có người thì chết gần người; xã Tây Ninh Tiền Hải có 171 gia đình chết không còn một ai… * Cuốn Lịch sử tỉnh Hà Nam Ninh xuất bản năm 1988... đạn, thương vong Nạn đói năm ấy, rồi hậu quả của chất độc da cam sẽ mãi là niềm đau không gì có thể bù đắp được Con số 10% là một phỏng định và nếu chính xác, thảm họa nạn đói 1945 có thể dùng so sánh với tội ác diệt chủng Người Việt và nhất là thế hệ trẻ Việt cần nhìn lại vấn đề này một cách trân trọng hơn và mãi mãi chúng ta không thể lãng quên nỗi đau của dân tộc PHỤ LỤC Phụ lục 1 Đói phải ăn cả... gầy trơ xương nằm la liệt Phụ lục 3 Những người chết đói ở trại Giáp Bát được cải táng về nghĩa trang Hợp Thiện Hà Nội Phụ lục 5 Núi xương khổng lồ đồng bào ta chết Phụ lục 6 xe kéo xác người đi chôn tập thể Phụ lục 7 Một góc Khu tưởng niệm 2 triệu đồng bào chết vì oanh tạc và nạn đói năm 1944 – 1945 Phụ lục 8 BIA TƯỞNG NIỆM NẠN NHÂN CHẾT ĐÓI TẠI ĐƯỜNG KIM NGƯU HÀ NỘI Phụ lục 9 CỤ NGÔ TỬ... mỗi ngày chết 400 người Huyện Kim Sơn Ninh Bình cả vụ đói có người chết Trong hộ thì có hộ chết không còn người nào Nam Định chết người; Ninh Bình người, Hà Nam người * Theo giáo sư sử học Văn Tạo - nguyên viện trưởng Viện Sử học nạn đói năm 1945 đã diễn ra ở 32 tỉnh thành cũ từ Quảng Trị trở ra Từ năm 1990-1995 Viện Sử học với hàng trăm cán bộ nhân viên,... ghê gớm của nạn đói - Đa phần các kho thóc có khả năng cứu đói trực tiếp tại miền Bắc khi đó đều nằm trong tay quân đội Nhật Người Nhật và chính quyền đương thời vì mục đích chiến tranh đã thờ ơ trước sự chết đói hàng loạt của dân bản địa Các kho lương thực được tăng cường bảo vệ, hoạt động trưng thu và vận chuyển lương thực được bảo vệ tối đa Các kho thóc trở thành tâm điểm nơi người đói kéo về nhưng ... NÉT KHÁT QUÁT VỀ NẠN ĐÓI NĂM 1945 Nạn đói năm Ất Dậu nạn đói xảy miền Bắc Việt Nam khoảng từ tháng 10 năm 1944 đến tháng năm 1945 làm khoảng từ đến triệu người dân chết đói Thi sĩ Bàng... tháng năm 1957 Nạn đói năm Ất Dậu, 1944 -1945, 31/12/2013, Bức ảnh nạn đói năm 1945 cố nghệ sĩ Võ An Ninh, Vũ Vũ sưu tầm-nguồn nghệ sĩ Võ An Ninh,11/06/2012, Nạn đói năm. .. nhân từ Nhật Hoa Kỳ Chương Thực trạng Nạn đói 1945 Chương Hậu Nạn đói năm 1945 Kết nghiên cứu Qua trình nghiên cứu tìm tòi ta thấy Nạn đói năm 1945 nỗi đau lớn dân tộc mà không quên nhắc - Xem thêm -Xem thêm Nạn đói năm 1945, Nạn đói năm 1945,
Văn học Việt Nam và nạn đói năm 45 Trong quá trình học môn Ngữ Văn, chúng ta sẽ nhận thấy có rất nhiều tác phẩm có bối cảnh hoặc hình tượng nhân vật.. dựa trên thực tế. Và mỗi học sinh phải có những kiến thức nhất định về những điều trên để có thể có được những bài phân tích văn học có chất lượng, giúp bài văn của bản thân trở nên đặc biệt, có chiều sâu. Ở bài viết ngày hôm nay, mình sẽ nêu ra một dấu mốc xuất hiện rất nhiều trong những áng văn Việt Nam, đó là "Nạn đói năm 1945". Qua những áng văn chương, chúng ta đã chứng kiến câu chuyện đau lòng của lịch sử Việt Nam. Đó là thời mà cái đói, cái rét bủa vây lấy đồng bào mình. Chắc hẳn, chưa ai quên được những câu thơ trong tác phẩm "Bếp lửa" của nhà thơ Bằng Việt "Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy" Cái sự "đói mòn đói mỏi" đầy ám ảnh ấy lặng lẽ bước vào văn chương, để rồi sau này ra đời những truyện, những hồi ký ám ảnh người đọc về sau. Có mấy ai mà không bồi hồi, xót xa khi nghĩ về nốt trầm mặc ấy của dân tộc.. Vậy, nỗi ám ảnh ấy đã xuất hiện trong văn chương như thế nào? Trước hết, chúng ta hãy tới với nhà văn Tô Hoài. Ông đã từng viết về nạn đói "Mỗi khi chợt nghĩ lại, tôi vẫn bàng hoàng về những năm khủng khiếp ấy", không chỉ vậy, tác giả "Vợ chồng A Phủ" còn từng nói rằng "chữ nghĩa tôi run rẩy, thổi bay được. Khủng khiếp quá". Cái run rẩy kia âu cũng chính là cái run rẩy của Tô Hoài, của mỗi con người Việt Nam khi thấy hiểu trước nạn đói đã cướp đi tính mạng của hai triệu con người. Thật vậy, trong tác phẩm "Chuyện cũ Hà Nội", ông đã đưa cái "run rẩy" vào câu văn khi miêu tả chuyện mua bán trẻ em như mua bán một con lợn giữa những năm đói như sau "Lại thêm người đói các nơi ùn tới. Trong đầu chợ, nhan nhản người đem bán trẻ con. Ở làng tôi, người quảy trẻ con sang bán ở các chợ bên kia sông Hồng. Có người chuyên đi buôn trẻ con, như thời thường mua bán gà lợn. Nhưng đâu bây giờ cũng hết cái ăn, ai còn mua trẻ con làm gì. Bắt đi lắm khi lại dắt về. Khốn khổ". Lúc bấy giờ, Hà Nội đâu phải là nơi nạn đói hoành hành, thế nhưng người đói đổ về đây rất nhiều, điều này dẫn tới hình ảnh phố phường Hà Nội đầy thê lương, vất vưởng "Càng phấp phỏng, càng hoảng hốt khi trông thấy lũ lượt người đói các nơi kéo vào.. Người ngồi, người chết la liệt các vỉa hè. Suốt ngày đêm xe kéo xác chết lầm lũi qua". Chừng ấy đủ khiến người ta hình dung một hiện thực khắc nghiệt, tang tóc đến nghẹn lòng. Nhắc đến sự kiện nạn đói năm 45 trong văn học thì không thể không kể đến Nam Cao. Các tác phẩm truyện ngắn của ông, mỗi truyện khắc họa một bi kịch khác nhau của phận người trong cái đói, cái nghèo. Ông đã từng đau đớn mà viết rằng "Con chó chết vào giữa cái hồi đói khủng khiếp mà có lẽ đến năm 2000, con cháu chúng ta vẫn còn kể". Nam Cao đã nhìn ra cái đói đã tiềm tang tự thuở nào trong đời sống của những con người thấp cổ bé họng. Đó là hình ảnh một lão Hạc sống leo lắt qua ngày trong khu vườn chẳng còn gì để bán. Đó là nhân vật bà lão đói quá lâu, cho tới khi có được một bữa no thì cơ thể không thể chịu được bữa no bất thường ấy, rồi bà lão lăn ra chết. Trong cái nghèo, cái đói, và sự cô độc ấy, con người ta dường như phải giành giật sự sống, dù chỉ là hi vọng mong manh nhất. Tương tự với những áng văn của Nam Cao, tác phẩm Vợ Nhặt của Kim Lân cũng phản ánh vô cùng chân thực cái rùng rợn của nạn đói năm 45. Truyện lấy bối cảnh nạn đói năm 1945 tràn lan khiến người chết như ngả rạ, người sống dật dờ như những bóng ma. Cái hình ảnh người "chết như ngả rạ" khiến chúng ta không khỏi sợ hãi trước trò đùa của tạo hóa. Thế nhưng, trong hoàn cảnh tước cái đói, phải đối diện tử thần, nhiều người mất nhân tính, cốt có cái đưa vào miệng, vẫn có những câu chuyện xúc động. Đó chính là câu chuyện của Tràng và thị, những con người chưa biết ngày mai sẽ như thế nào nhưng họ vẫn sẵn sàng tìm đến nhau, trao nhau hơi ấm tình người. Không chỉ trong các tác phẩm truyện ngắn, cái đói cái nghèo ấy cũng xuất hiện ngay cả những dòng thơ. Trong tác phẩm "Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc", Văn Cao đã phải đau đớn mà thốt lên rằng "Ngã tư nghiêng nghiêng đốm lửa Chập chờn ảo hóa tà ma.. Đôi dãy hồng lâu cửa mở phấn sa Rũ rượi tóc những hình hài địa ngục Lạnh ngắt tiếng ca nhi phách giục Tình tang.. Não nuột khóc tàn sương Áo thế hoa rũ rượi lượn đêm trường Từng mỹ thể rạc hơi đèn phù thể Ta đi giữa đường dương thế Bóng tối âm thầm rụng xuống chân cây.." Hay như trong tác phẩm "Ô Cầu Dền" của nhà văn Bảo Sinh, cái chết giữa những tháng ngày đói khổ ấy đã trở thành cái chết chung, là "mả chôn chung" của cả dân tộc "Năm 1945, đây là mả chôn chung của nạn nhân chết đói. Hàng ngày, xe bò chở đầy xác chất trên phủ mảnh chiếu, chân tay thò ra ngoài, lọc cọc, rập rình, xe đu đưa những cánh tay, cẳng chân cũng đu đưa theo. Xác chết được đổ đầy vào một cái hố chôn chung, sau đó lấp đất phẳng, không có dấu hiệu mồ mả gì cả". Những câu văn, lời thơ trên chua chát, đắng cay bởi nó có hiện thực, có mồ hôi, nước mắt, xương máu của đồng bào ta. Từng hình ảnh cứ hiện lên sống động qua từng con chữ như muốn nhắc nhở người ta ghi nhớ mãi, như ghi nhớ một thứ kí ức đớn đau đến cứa da cứa thịt của dân tộc này! Cảm ơn mọi người đã đọc bài của mình nạn đói văn học ý nghĩa
Ất Dậu bốn lăm, niềm đau trận đói. cha lén ăn, mặc chết lịm con thơ. quá tủi thẹn, đã tự mình treo cổ! suốt đời bà chưa khuây quên bao giờ. chuyện quê buồn tôi nghe từ tuổi nhỏ. người thành ma đói n Domain Liên kết Hệ thống tự động chuyển đến trang sau 60 giây Tổng 0 bài viết về có thể phụ huynh, học sinh quan tâm. Thời gian còn lại 000000 0% Bài viết liên quan Tác phẩm văn học về nạn đói 1945 Văn học Việt Nam và nạn đói năm 45 - Việt Nam Overnight Văn học Việt Nam và nạn đói năm 45 Trong quá trình học môn Ngữ Văn, chúng ta sẽ nhận thấy có rất nhiều tác phẩm có bối cảnh hoặc hình tượng nhân vật.. dựa trên thực tế. Và mỗi học sinh phải có những Xem thêm Chi Tiết Một Tác Phẩm Văn Học Lớp 12 Viết Về Nạn Đói 1945 Jun 12, 2021MỘT TÁC PHẨM VĂN HỌC LỚP 12 VIẾT VỀ NẠN ĐÓI 1945. Tác giả Lê Trần Diệu Thu Official được chia sẻ tại website Xem thêm Chi Tiết List Sách hay về nạn đói năm 1945 - WiiBook Dec 19, 2020Nạn Đói Năm 1945 Ở Việt Nam Những Chứng Tích Lịch Sử là công trình nghiên cứu được công bố năm 1995 do Giáo sư Văn Tạo và Giáo sư Furuta Motoo chủ biên. Đến khi ấy, công chúng mới ngỡ ng Xem thêm Chi Tiết Những cuốn sách hay về nạn đói năm 1945 đầy thực tế và đau thương Nạn Đói Năm 1945 Ở Việt Nam Những Chứng Tích Lịch Sử là công trình nghiên cứu được công bố năm 1995 do Giáo sư Văn Tạo và Giáo sư Furuta Motoo chủ biên. Đến khi ấy, công chúng mới ngỡ ngàng và tìm v Xem thêm Chi Tiết Vợ nhặt Kiệt tác cảm động về tình người trong nạn đói năm 1945 Ra đời cách đây khoảng năm thập kỷ, Vợ nhặt là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất về nạn đói 1945. Bằng ngòi bút tài hoa, Kim Lân đã thành công xây dựng bối cảnh nạn đói thê thảm, sự thiện lương c Xem thêm Chi Tiết Cái Đói - Chủ Đề Ám Ảnh Trong Các Tác Phẩm Của Nam Cao Thấy được "Cái đói - chủ đề ám ảnh trong tác phẩm của Nam Cao trước Cách. mạng tháng Tám 1945" tức là thấy được cái nhìn sắc sảo của Nam Cao đối với những vấn. đề nóng bỏng trong xã hội cũng như tấm l Xem thêm Chi Tiết Những tác phẩm văn học hay nhất thời kỳ 1945-1975 Năm 1945 được coi là dấu mốc lịch sử quan trọng đối với văn học Việt Nam, đây là năm cách mạng tháng 8 thành công, vua Bảo Đại thoái vị và Hồ Chí Minh đọc tuyên ngôn độc lập khai sinh là nước Việt Nam Xem thêm Chi Tiết Day dứt trước tác phẩm sắp đặt về nạn đói 1945 Báo Dân trí Day dứt trước tác phẩm sắp đặt về nạn đói 1945 Chủ nhật, 11/12/2011 - 1825 Dân trí - 1945 cái chén sơn mài vàng chóe viết số 1945 và 1945 đôi đũa phủ sơn đỏ trong một không gian rộng hơn 200m2 nói Xem thêm Chi Tiết Các tác phẩm văn học Việt Nam trước 1945 có giá ... - Noron Đời thừa - ấn bản mới phát hành 2016 của Minh Long Book tuyển chọn những truyện ngắn đặc sắc của Nam Cao xoay quanh cuộc sống người trí thức, với những tuyên ngôn để đời của nhà văn Nam Cao về văn chư Xem thêm Chi Tiết Đề tài Cái đói - Chủ đề ám ảnh trong nhiều tác phẩm của Nam Cao Thấy được "Cái đói - chủ đề ám ảnh trong tác phẩm của Nam Cao trước Cách mạng tháng Tám 1945" tức là thấy được cái nhìn sắc sảo của Nam Cao đối với những vấn đề nóng bỏng trong xã hội cũng như tấm lòn Xem thêm Chi Tiết
Nỗi kinh hoàng của một sự kiện lịch sử đau thươngNạn đói năm 1945 đã từng được ví là “sự hủy diệt khủng khiếp” trong lịch sử vốn đã quá nhiều đau thương, mất mát của dân tộc Việt Nam. 70 năm đã trôi qua, nhưng những nỗi đau để lại từ “sự hủy diệt khủng khiếp” ấy dường như vẫn còn đó, khôn tịch Hồ Chí Minh đã từng so sánh nạn đói năm 1945 ở Việt Nam với tổn thất của cuộc chiến tranh Pháp- Đức, Người viết “Nạn đói kém nguy hiểm hơn nạn chiến tranh. Thí dụ, trong 6 năm chiến tranh, nước Pháp chỉ chết 1 triệu người, nước Đức chỉ chết chừng 3 triệu người. Thế mà, nạn đói nửa năm ở Bắc Bộ ta đã chết hơn 2 triệu người…” Trích Hồ Chủ Tịch hô hào chống nạn đói năm 1945.Trong 6 tháng, số người chết vì đói ở Việt Nam lớn hơn cả số người chết vì chiến tranh ở Pháp trong 6 đói năm 1945 đã diễn ra vô cùng khốc liệt Ảnh của cố nghệ sĩ nhiếp ảnh Võ An NinhCho đến nay, nhiều tài liệu đã khẳng định, số người chết trong nạn đói kinh hoàng năm 1945 nhiều hơn con số 2 triệu, nhưng rất khó để có được số thống kê cụ đói năm 1945 diễn ra từ cuối năm 1944 đến tháng 5 năm 1945 với “địa bàn” chính từ tỉnh Quảng Trị trở ra Bắc Bộ với “đỉnh điểm” là tỉnh Thái Bình. Theo con số ghi chép từ cuốn sách “Nạn đói năm 1945 ở Việt Nam- những chứng tích lịch sử” của GS. Văn Tạo và GS. Furuta Moto, ở xã Tây Lương thuộc Tiền Hải- Thái Bình nơi nạn đói diễn ra kinh khủng nhất, 66,66 % số dân của xã chết đói, trong đó rất nhiều gia đình chết cả nhà, nhiều dòng họ chết cả Bình- nơi diễn ra nạn đói thảm khốc nhấtTừ tháng 1/1945 đến tháng 5/1945, xác người chết nằm ngổn ngang từ Quảng Trị đến khắp các tỉnh miền Bắc. Ở đâu người ta cũng nhìn thấy xác người chết đói. Trong 70 năm qua, những hố chôn người tập thể vẫn là nỗi đau đớn, ám ảnh khôn nguôi của biết bao thế hệ. Trong ký ức của nhiều người vẫn còn giữ lại hình ảnh những chiếc xe bò chở xác người trên những phố Hà Nội buổi sáng sớm, hình ảnh người nằm chết la liệt ở khắp các con đường, hình ảnh những người kiệt sức, còng queo xếp hàng dài nối nhau đi xin ăn…Xác người ở khắp nơi... Ảnh Võ An NinhNói về tính tàn khốc của nạn đói, cuốn “Nạn đói năm 1945 ở Việt Nam- những chứng tích lịch sử” viết, “Nạn đói vô cùng khủng khiếp. Nó kéo dài cái chết khiến nạn nhân bị các cơn đói dày vò, đau khổ, tủi nhục. Nhìn thấy người thân chết mà không cứu được, biết đến lượt mình rồi sẽ chết mà không thoát được. Muốn tìm cái sống đã phải dứt bỏ nhà cửa, quê hương, mồ mả tổ tiên ra đi, mong sao được cứu sống, nhưng rồi lại chết gục ở đầu đường xó chợ…”.Cuốn sách “Nạn đói năm 1945 ở Việt Nam- những chứng tích lịch sử” còn miêu tả hình ảnh những trẻ em nhay vú mẹ đã chết, người đi lĩnh chẩn bế đứa con trên tay nhưng con đã chết…Cuốn sách viết, “Nạn đói đã chôn vùi nhân phẩm con người. Nạn đói diễn ra vô cùng thảm khốc. Hàng nghìn hộ chết cả nhà, nhiều dòng họ chết cả họ, hàng chục xóm làng chết cả xóm, cả làng”.Tội ác chiến tranhThu gom xác người trên phố Ảnh Võ An NinhTrong tác phẩm “Chuyện cũ Hà Nội” của nhà văn Tô Hoài, ông từng viết, “Nói bao nhiêu về cảnh đói 1944-1945 cũng vẫn chưa thấm. Chữ nghĩa tôi run rẩy, thổi bay được. Khủng khiếp quá”.… “Sau đảo chính mùng chín tháng Ba, lính Nhật đi đẩy người đói không xuể. Người ngồi, người chết la liệt các vỉa hè. Suốt ngày suốt đêm kéo xác chết lầm lũi qua”- Tô Hoài đói cơ cực, đau thương của nạn đói năm 1945 cũng từng được miêu tả trong tác phẩm văn học nổi tiếng “Vợ nhặt” của nhà văn Kim Lân.… “Cái đói đã tràn đến xóm này tự lúc nào. Những gia đình từ những vùng Nam Định, Thái Bình, đội chiếu lũ lượt bồng bế, dắt díu nhau lên xanh xám như những bóng ma, và nằm ngổn ngang khắp lều chợ. Người chết như ngả rạ. Không buổi sáng nào người trong làng đi chợ, đi làm đồng không gặp ba bốn cái thây nằm còng queo bên đường. Không khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người…” Trích “Vợ nhặt”.Ảnh tư liệuNguyên nhân của nạn đói kinh hoàng năm 1945 ở Việt Nam được cuốn sách “Nạn đói năm 1945 ở Việt Nam- những chứng tích lịch sử” phân tích rất đó, Nhật thu gom lúa gạo, Pháp dự trữ lương thực phục vụ cho chiến tranh, trong khi thiên tai, lũ lụt, sâu bệnh gây mất mùa tại miền Bắc. Bệnh dịch tả lây lan nhanh và rộng khắp trong mùa lũ. Không dừng lại ở đó, Nhật còn bắt nhân dân ta phá lúa, hoa màu để trồng cây đay. Những biến động quân sự và chính trị dồn dập xảy ra đã ảnh hưởng tiêu cực đến sản xuất lương thực miền Bắc vốn dĩ đã thiếu gạo nên càng bị đói.Còn nữaCuốn “Nạn đói năm 1945 ở Việt Nam- những chứng tích lịch sử” của GS. Nguyễn Văn Tạo và GS. Furuta Moto công bố năm 1995, đến nay đã 20 năm trôi qua, cuốn sách được xem là tư liệu quý giá về sự kiện lịch sử Nạn đói năm 1945 ở Việt Nam.“Nạn đói năm 1945 ở Việt Nam- những chứng tích lịch sử” là công trình khoa học công phu với nhiều tư liệu quý. Để tiến hành nghiên cứu, biên soạn công trình này, các tác giả đã phải dày công sưu tập, khai thác tư liệu từ nhiều nguồn khác nhau tư liệu thành văn, tư liệu điều tra và khảo sát thực địa trên 23 điểm thuộc 21 tỉnh, thành từ Quảng Trị trở HươngBài viết có sử dụng thông tin, tài liệu từ cuốn sách “Nạn đói năm 1945 ở Việt Nam- những chứng tích lịch sử” của GS. Văn Tạo và GS. Furuta Moto
thơ về nạn đói 1945