thế giới hiện đại phát triển quá nhanh

Lướt nhanh như những thước phim điện ảnh, không gì là không thể với ThrustSSC - con quái vật do Anh chế tạo đã trở thành chiếc xe nhanh nhất hành tinh vào ngày 15 tháng 10 năm 1997, nó phóng nhanh đến nỗi có thể được cho là bất khả chiến bại. Quái vật ThrustSSC đạt tốc Thế giới hiện đại phát triển quá nhanh khiến cho nhiều người cảm thấy chỉ một khắc chậm chân đã tụt lại phía sau quá xa. Nếu như cắt cành thì chiều dài cành cắt khoảng 5 - 10cm tỷ lệ sống của cành sẽ khoảng 70 - 90%. Có nhiều loại hương thảo với những đặc điểm riêng biệt. Có những cây phát triển cao và rậm, một số cây có xu hướng leo. Với nhiều quy định, chính sách vừa được ban hành, thị trường bất động sản đang thiết lập một quỹ đạo mới với kỳ vọng phát triển bền vững hơn. Nhiều nhà đầu tư nghe ngóng thị trường đã bắt đầu lên kế hoạch tài chính dịp cuối năm 2022. Báo Đà Nẵng điện tử, cơ quan của Đảng bộ Đảng Cộng tư tưởng tự lực, tự cường, chủ động chuẩn bị chu đáo các điều kiện cách mạng tiếp tục được phát triển và khẳng định trong các giai đoạn cách mạng sau, đưa tới thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống thực dân pháp (1945- 1954), kháng chiến chống đế quốc mỹ (1954-1975), trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước (1975- nay), đặc biệt trong … "Chính sách tiền tệ thận trọng của Việt Nam và các biện pháp kiểm soát giá cả xăng dầu, điện, thực phẩm, y tế và giáo dục hiệu quả sẽ giữ lạm phát ở mức 3,8% năm 2022 và 4% vào năm 2023, giống như dự báo của chúng tôi trong Báo cáo triển vọng phát triển châu Á năm 2022 vào tháng 4", Giám đốc quốc gia ADB tại Việt Nam cho hay. Vay Tiền Online Cấp Tốc 24 24. Mới nhất Thời sự Góc nhìn Thế giới Video Podcasts Kinh doanh Bất động sản Khoa học Giải trí Thể thao Pháp luật Giáo dục Sức khỏe Đời sống Du lịch Số hóa Xe Ý kiến Tâm sự Thư giãn Đêm giao thừa năm 2019, nhà dịch tễ học Mỹ Ian Lipkin nhận được cuộc gọi bí mật từ Trung Quốc về một căn bệnh như viêm phổi tại Vũ Hán. "Tôi được nhắn rằng đừng lo lắng về vấn đề đó", Lipkin, giáo sư dịch tễ học nổi tiếng tại Đại học Columbia của Mỹ, nhớ lại cuộc gọi từ nguồn tin uy tín tại Trung Quốc. Ông nói thêm rằng người này cho biết căn bệnh do một loại virus corona gây ra và có vẻ không quá dễ lây lan. Cũng vào ngày cuối cùng của năm 2019, Maria Van Kerkhove, chuyên gia bệnh truyền nhiễm của Tổ chức Y tế Thế giới WHO, nhận được email thông báo về đợt bùng phát bệnh viêm phổi bí ẩn trong 44 bệnh nhân nhập viện ở thành phố Vũ Hán, tỉnh Hồ Bắc. "Bệnh viêm phổi không rõ nguyên nhân - Trung Quốc" là tiêu đề thông báo ngày 5/1/2020 của WHO. 4 ngày sau, truyền thông Trung Quốc cho biết căn bệnh do một chủng virus corona gây ra. Đây cũng là virus gây ra đại dịch SARS hội chứng hô hấp cấp tính nặng bùng phát tại Trung Quốc vào năm 2003, khiến gần 800 người trên thế giới thiệt mạng trước khi được kiểm soát. Hành khách tại nhà ga Hán Khẩu, Vũ Hán ngày 22/1/2020, một ngày trước khi Vũ Hán phong tỏa. Ảnh Xiaolu Chu. Giới khoa học tỏ ra cảnh giác, nhưng không quá lo lắng. SARS từng rất đáng sợ, nhưng chỉ lây nhiễm khi người bệnh đã chuyển biến nặng. Trình tự gene của virus mới do các nhà khoa học Trung Quốc công bố cũng khá giống virus gây bệnh SARS. Stanley Perlman, nhà khoa học tại Đại học Iowa, đánh giá căn bệnh mới sẽ chỉ lây lan sau khi ca nhiễm xuất hiện triệu chứng, dự đoán mà sau này ông thừa nhận là sai lầm. Truyền thông nhà nước Trung Quốc hồi tháng 3/2020 thực hiện cuộc phỏng vấn với một nhân viên kế toán 41 tuổi họ Chen sống ở quận Vũ Xương, thành phố Vũ Hán, thủ phủ tỉnh Hồ Bắc, người được coi là ca nhiễm được ghi nhận đầu tiên. "Tôi bắt đầu sốt vào ngày 16/12/2019 và không cắt cơn sốt cả ngày hôm đó", Chen nói trong cuộc phỏng vấn. Giáo sư Lipkin hồi tháng 9 cũng nói rằng sau khi tìm hiểu, ông biết về một đợt bùng phát dịch ở Vũ Hán vào quãng thời gian này. Trung Quốc ngày 11/1/2020 ghi nhận trường hợp tử vong đầu tiên vì bệnh viêm phổi bí ẩn là một người đàn ông 61 tuổi bị viêm gan mạn tính, làm việc tại chợ hải sản Hoa Nam ở Vũ Hán, nơi buôn bán nhiều động vật hoang dã. Ngày 13/1, giới chức xác nhận một ca nhiễm tại Thái Lan, trường hợp đầu tiên ngoài Trung Quốc. Một ngày sau, nhóm điều tra của WHO đến Trung Quốc và nhanh chóng kết luận có bằng chứng virus mới truyền từ người sang người. Ngày 23/1, Vũ Hán áp lệnh phong tỏa đầu tiên trên thế giới, nhưng hàng triệu người khi đó đã rời khỏi thành phố và tỏa ra khắp nơi. Ngày 11/2/2020, WHO công bố tên chính thức của dịch viêm phổi do chủng virus corona mới nCoV gây ra là Covid-19, trong bối cảnh ngày càng nhiều quốc gia phát hiện ca nhiễm và giới khoa học Trung Quốc nhận thấy số người nhiễm tăng gấp đôi sau mỗi 7,4 ngày. Các bệnh viện tại Vũ Hán quá tải, y bác sĩ kiệt quệ, đám đông chen chúc để được điều trị giữa những tiếng than khóc. Ngoài điểm nóng Vũ Hán, sự chú ý của thế giới khi đó còn đổ dồn vào du thuyền Diamond Princess, nơi phát hiện hàng loạt ca nhiễm và bị cách ly tại cảng Yokohama của Nhật Bản. Các nhà khoa học sững sờ trước thực tế là những người chỉ ở trong phòng trên du thuyền và tuân thủ biện pháp chống dịch cũng nhiễm virus. "Chúng tôi khá chắc đây là đại dịch khi chứng kiến cách virus lây lan trên tàu Diamond Princess", bác sĩ Michael Callahan, người dẫn dắt nhóm chuyên gia Mỹ điều tra tình hình trên du thuyền, cho hay. Như dự đoán của ông, WHO tuyên bố Covid-19 là đại dịch vào ngày 11/3/2020, khi virus đã lan khắp 120 quốc gia và vùng lãnh thổ, với hơn ca nhiễm và hơn người chết. Gia đình nhìn mặt một bệnh nhân tử vong vì Covid-19 lần cuối trước khi thi thể được đưa đi hỏa táng ở làng Giddenahalli, ngoại ô thành phố Bengaluru, Ấn Độ, hồi tháng 3. Ảnh Reuters. Nỗ lực ứng phó chưa từng có tiền lệ Bước vào cuộc chiến cùng loại virus mà hệ miễn dịch chưa từng chạm trán, con người thất thế khi hiểu biết về mối đe dọa còn hạn chế. Từ những ngày đầu, tình thế "tay không đánh giặc" buộc hàng loạt quốc gia áp dụng các biện pháp dịch tễ truyền thống như xét nghiệm, truy vết tiếp xúc, cách ly người nhiễm, cô lập khu vực tiếp xúc người nhiễm, phong tỏa, giãn cách xã hội, hạn chế đi lại và giao thương. Trả lời VnExpress hồi tháng 5, David Filder, chuyên gia cấp cao về y tế toàn cầu thuộc Hội đồng Quan hệ Đối ngoại CFR của Mỹ, nhận định thế giới trong giai đoạn đầu từng bị kéo về cùng một vạch xuất phát khi nCoV bắt đầu hoành hành. Khi chưa quốc gia nào nghiên cứu được vaccine, tất cả phải chọn can thiệp "phi dược học" để đối phó Covid-19, bất kể đó là nước giàu hay nước nghèo. Trung Quốc phong tỏa Vũ Hán, tâm dịch đầu tiên của thế giới, cùng hàng loạt địa phương thuộc tỉnh Hồ Bắc với tổng dân số khoảng 57 triệu người trong hơn hai tháng, từ 23/1 đến 8/4/2020. Đúng hai tháng sau khi nước láng giềng phong tỏa Vũ Hán, Ấn Độ phát lệnh hạn chế đi lại với toàn bộ 1,3 tỷ dân nước này. Những biện pháp tương tự được áp dụng khắp khu vực châu Á - Thái Bình Dương, nơi các quốc gia và vùng lãnh thổ chưa quên bài học ứng phó đại dịch SARS do virus họ hàng của nCoV gây ra. Người dân mua rau qua rào chắn tại Vũ Hán, Trung Quốc hồi tháng 4/2020. Ảnh Reuters. Lúc Vũ Hán cơ bản kiểm soát tình hình nhờ lệnh phong tỏa nghiêm ngặt, người dân miền bắc Italy, nơi bùng phát Covid-19 đầu tiên tại châu Âu, dần thấm thía nỗi sợ dịch bệnh. "Chiến tranh đã bùng nổ theo nghĩa đen, với những trận chiến không ngừng cả ngày lẫn đêm. Từng người xấu số được đưa vào phòng cấp cứu, với những biến chứng vượt xa bệnh cúm", Daniele Macchini, bác sĩ tại bệnh viện thành phố Bergamo thuộc vùng Lombardy, cho biết. Cuộc khủng hoảng mà nhiều người coi là thảm họa dịch tễ học cũng lập tức càn quét nước Mỹ, với tâm điểm là New York. "Số ca nhiễm tăng gấp 10 lần chỉ trong một tuần", Craig Smith, bác sĩ tại Trung tâm Y tế Đại học Columbia ở thành phố New York, cho biết vào ngày 21/3/2020. "Một trong những điều chúng tôi nhận ra là các chuyên gia đã sai hầu như trong mọi dự báo. Tôi đã học cách ngừng dự đoán về đại dịch".Phương Tây sau giai đoạn lúng túng bước đầu cũng phải vượt lên những tranh luận về quyền cá nhân và chấp nhận sống chung với phong tỏa. Italy là nước đầu tiên tại châu Âu ban bố hạn chế đi lại trên toàn quốc vào ngày 9/3/2020, chỉ cho phép người dân ra đường cho nhu cầu thiết yếu như mua thực phẩm hay dịch vụ y hình được nhân rộng khắp thế giới với mức độ nghiêm ngặt tùy vào diễn biến dịch. Châu Á trở thành hình mẫu chống dịch nhờ tiên phong siết kiểm soát biên giới và truy vết quyết liệt chống lây nhiễm. Những nước chậm phong tỏa, để nCoV lây lan trong cộng đồng bằng niềm tin mơ hồ về "miễn dịch cộng đồng" nhanh chóng thay đổi quan điểm khi nhận ra hậu quả khó tránh hệ thống y tế quốc gia quá tải và số ca tử vong vì Covid-19 tăng tự phần còn lại của thế giới, Mỹ nhanh chóng áp dụng các biện pháp phong tỏa. Trường học, nhà hàng, văn phòng đều đóng cửa. Đường phố vắng lặng. Người dân sợ hãi đổ xô mua đồ tích trữ. Tuy nhiên, số ca nhiễm và tử vong vẫn không ngừng tăng. Đến cuối tháng 3/2020, Mỹ vượt Trung Quốc và Italy, trở thành vùng dịch lớn nhất thế giới. Các xe đông lạnh trở thành nhà xác dã chiến ở New York."Nhìn lại, chúng tôi đã hoàn toàn sai lầm khi không chuẩn bị tốt hơn", bác sĩ Lewis Kaplan, cựu chủ tịch Hiệp hội Y học Chăm sóc Tích cực của Mỹ, cho cao điểm đại dịch vào tháng 4, Tổ chức Năng lượng Quốc tế IEA ước tính khoảng 4,2 tỷ người, tương đương 54% dân số thế giới và 60% GDP toàn cầu, sống trong tình trạng phong tỏa một phần hoặc toàn diện. Gần như toàn bộ dân số thế giới ở giai đoạn này chịu ảnh hưởng nhất định từ giãn cách xã hội. "Tôi trở nên khiêm tốn hơn sau những năm tháng qua, bởi nhận ra rằng còn bao điều tôi không biết". Tiến sĩ Anthony Fauci, cố vấn y tế Nhà Trắng, nói. Tuy nhiên, sau nhiều tháng bị cô lập trong vòng phong tỏa, người dân phương Tây dần mất kiên nhẫn, thúc đẩy giới chức nỗ lực chuyển sang giai đoạn ứng phó Covid-19 mới. Nhiều nước hối hả tái mở cửa trước sức ép ngày càng tăng của công chúng, dù đường cong của dịch chưa được làm quả là sau một thời gian hạ nhiệt, Covid-19 tái bùng phát nghiêm trọng ở châu Âu, khiến giới chức tái áp đặt các biện pháp hạn chế, dù phần lớn tránh phong tỏa diện rộng. Trong khi đó tại châu Á, khu vực chống dịch tốt hơn phương Tây, người dân ngày càng mệt mỏi vì cuộc chiến dài hơi và khao khát "sổ lồng", dẫn đến làn sóng đại dịch mới. Giữa lúc chính phủ các nước loay hoay với bài toán phong tỏa hay tái mở cửa, một mũi ứng phó khác của thế giới thắp lên hy vọng đưa nhân loại thoát khỏi đại dịch, khi toàn cầu dốc nguồn lực tìm các biện pháp phòng ngừa, chữa trị Covid-19. Những gì khoa học thế giới đã đạt được trong gần hai năm qua, nhằm tìm hiểu và khắc chế nCoV, là kỳ tích chưa từng có tiền lệ. Nỗ lực nghiên cứu toàn cầu đã gặt hái nhiều thành quả xoay chuyển cục diện cuộc chiến với virus. Các nước đã phát triển những công cụ xét nghiệm phát hiện được nCoV trong vài phút, thay cho công nghệ xét nghiệm PCR đòi hỏi nhiều thời gian và nguồn lực ban đầu. Kho dữ liệu mở đồ sộ về thông tin di truyền của nCoV giúp thế giới có được bức tranh tổng thể và chi tiết hơn về dịch bệnh. Trong 12 tháng đầu đại dịch, thư viện trực tuyến quốc tế về y sinh PubMed thống kê hơn bài viết khoa học liên quan Covid-19. Trong khi đó, virus Ebola được phát hiện vào năm 1976, nhưng thế giới mới có tài liệu nghiên cứu về nó qua gần nửa thế kỷ. "Trong lịch sử, chưa từng có đợt xoay trục nguồn lực nào diễn ra với quy mô lớn như hiện nay", chuyên gia Madhukar Pai thuộc Đại học McGill nhận định. Magaret Keenan, công dân Anh 90 tuổi, trở thành người đầu tiên tiêm vaccine Covid-19 ngoài thử nghiệm lâm sàng vào ngày 8/12/2020. Ảnh Reuters. Bước ngoặt diễn ra cuối năm 2020 nhờ các loại vaccine Covid-19 được phát triển với tốc độ kỷ lục bằng những công nghệ khác nhau, từ virus bất hoạt đến mRNA. Hồi tháng 8 năm ngoái, Nga trở thành nước đầu tiên phê chuẩn vaccine Covid-19 với vaccine Sputnik V tự phát triển. Anh là nước phương Tây đầu tiên triển khai chiến dịch tiêm chủng đại trà, khi cấp phép hai loại vaccine Covid-19 của Pfizer và AstraZeneca trong tháng 12/2020. Mỹ cũng tiếp bước với liên tiếp hai quyết định phê duyệt vaccine của Pfizer và Moderna, đều được ghi nhận đạt hiệu quả trên 90%.Hồi tháng 10, nhân loại bổ sung thuốc điều trị Covid-19 dạng viên uống vào kho vũ khí ứng phó đại dịch. Monulpiravir, do hãng dược Merck và công ty y sinh Ridgeback của Mỹ cùng phát triển, hứa hẹn ngăn nguy cơ các triệu chứng diễn tiến nguy hiểm trong giai đoạn người bệnh mới nhiễm dược phẩm Pfizer của Mỹ ngày 14/12 công bố phân tích cuối cùng về kết quả nghiên cứu giai đoạn cuối xác nhận Paxlovid, thuốc viên trị Covid-19 của hãng, đạt hiệu quả 89% giảm khả năng nhập viện và tử vong đối với người trưởng thành nguy cơ trở nặng cao nếu nhiễm nCoV."Điều này vốn chỉ có trong mơ", Nahid Bhadelia, giám đốc sáng lập Viện Chính sách và Nghiên cứu Bệnh truyền nhiễm Mới nổi thuộc Đại học Boston của Mỹ, đánh bảo được nguồn cung vaccine và thuốc, các nước dần chuyển sang "sống chung với Covid-19" nhờ chủ động kiểm soát lây nhiễm và ca bệnh trong cộng đồng. Nhiều nước dần từ bỏ chiến lược "không Covid" và chuyển sang trạng thái bình thường mới, điển hình là Singapore và Australia. Bài toán bất bình đẳng vaccine Các thành tựu khoa học thần tốc trong hai năm qua đưa thế giới bước vào giai đoạn ứng phó mới. Chương trình tiêm chủng trở thành xương sống chiến lược chống dịch ở các nước. Trong nửa sau năm 2021, những nơi sớm đạt tỷ lệ tiêm đủ hai mũi vaccine Covid-19 trên toàn quốc bắt đầu nới lỏng các biện pháp giãn cách xã hội. Tuy nhiên, tình trạng thiếu hụt nguồn cung đã dẫn đến một bài toán nan giải, đó là bất bình đẳng vaccine trên toàn cầu. Bức tranh đại dịch thế giới trong nửa đầu năm 2021 được chia thành hai mảng đối lập giữa nơi có và không có vaccine. Anh dỡ bỏ tất cả biện pháp chống dịch, trong đó có khuyến cáo khẩu trang từ ngày 19/7, khi hơn 87% người trưởng thành được tiêm ít nhất một mũi vaccine và 68% đã tiêm đủ hai mũi. Hồi đầu mùa hè, giữa lúc nước Mỹ dần hồi sinh nhờ vaccine, đại dịch vẫn hoành hành ở những khu vực khó tiếp cận vaccine hơn. Tại châu Phi, một số quốc gia báo cáo hơn ca nhiễm mới mỗi ngày, trong khi giới lãnh đạo của khu vực liên tục lên án tình trạng tích trữ vaccine của các nước giàu. Giữa lúc Ấn Độ chìm trong hỗn loạn và tuyệt vọng bởi virus lan đến từng ngóc ngách, nhiều nước châu Á khác cũng hứng chịu làn sóng dịch tiếp theo và mắc kẹt trong các lệnh hạn chế, xuất phát từ vấn đề thiếu hụt vaccine và tiêm chủng chậm chạp. Hồi tháng 6, khi mạng xã hội Mỹ tràn ngập hình ảnh người dân mừng rỡ ôm hôn sau tiêm chủng, nhiều người Hàn Quốc vẫn phải lùng sục từng liều vaccine trên mạng. Tại Đông Nam Á, tính đến ngày 14/7, tỷ lệ tử vong vì Covid-19 trong vòng 7 ngày tăng 39%. Trong cùng giai đoạn, những biến chủng mới xuất hiện đe dọa thành quả chống dịch của những nước đang phát triển. Sau Beta từ Nam Phi và Gamma từ Brazil, biến chủng Delta xuất hiện tại Ấn Độ, đưa đại dịch sang giai đoạn mới đầy chết chóc, với khả năng lây lan nhanh chóng và dễ dàng như bệnh thủy đậu. Covid-19 không còn chủ yếu tấn công người cao tuổi và dễ tổn thương, mà gieo kinh hoàng với cả những người trẻ tuổi và khỏe mạnh. Lý do nhiều biến chủng nCoV xuất hiện. Video Vox Làn sóng lây nhiễm biến chủng Delta càn quét tại châu Á - Thái Bình Dương và Mỹ Latinh. Trước sức ép quốc tế về bất bình đẳng, cùng lo ngại về biến chủng mới xuất hiện ở những nơi có tỷ lệ tiêm chủng thấp, phương Tây bắt đầu đẩy mạnh viện trợ và san sẻ hình dịch giữa châu Á và phương Tây một lần nữa đảo ngược, khi châu Á dần bứt tốc tiêm chủng nhờ khắc phục được vấn đề nguồn cung, trong lúc giới lãnh đạo phương Tây đau đầu vì làn sóng bài vaccine. Hồi đầu tháng 10, Hàn Quốc, Nhật Bản và Malaysia vượt Mỹ về tỷ lệ tiêm chủng trên mỗi 100 dân. Ấn Độ cũng cán mốc tiêm một tỷ liều vaccine vào ngày 21/ bối cảnh thế giới dần chấp nhận sống chung với Covid-19, dựa vào vaccine để hạn chế tỷ lệ nhập viện và tử vong, sự xuất hiện của biến chủng Omicron khiến nỗi hoài nghi một lần nữa bao trùm tương lai. Hàng loạt kế hoạch tái mở cửa bị gác lại, các biện pháp hạn chế tại biên giới một lần nữa được siết chặt, cơn ám ảnh của công chúng ùa về, sau những gì đại dịch đã gây ra cho thế giới suốt hai năm qua. Hậu quả không thể đong đếm Covid-19 đã dẫn tới thiệt hại nghiêm trọng về nhân mạng trên toàn thế giới và đặt ra thách thức chưa từng có đối với hệ thống y tế công cộng. Đến nay, toàn cầu ghi nhận hơn 263 triệu ca nhiễm và hơn 5,2 triệu ca tử vong. Con số chắc chắn còn tiếp tục tăng khi đại dịch đang bùng phát trở lại ở nhiều nơi, đặc biệt là châu Âu, cùng với sự xuất hiện của những biến chủng mới. Một nghiên cứu của Đại học Oxford tháng trước cho thấy ít nhất 28 triệu năm tuổi thọ của con người đã bị mất vì Covid-19. Các chuyên gia lưu ý con số thực tế có thể còn cao hơn, vì nghiên cứu của họ không bao gồm hầu hết quốc gia châu Á, châu Phi và Mỹ Latinh do thiếu dữ liệu."Không gì khiến tôi bị sốc mạnh như đại dịch", tiến sĩ Nazrul Islam, người đứng đầu nghiên cứu, chia sẻ. Bên trong một phòng chăm sóc tích cực ở Mỹ. Video NY Times. Covid-19 cũng gây ảnh hưởng nặng nề tới kinh tế toàn cầu khi hàng chục triệu việc làm bị mất và chuỗi cung ứng bị gián tâm Nghiên cứu Rủi ro tại Trường Kinh doanh Judge Đại học Cambridge ước tính trong vòng 5 năm kể từ năm 2020, kinh tế toàn cầu có thể thiệt hại 3,3 nghìn tỷ USD nếu có đà phục hồi nhanh chóng và đây là kịch bản "lạc quan nhất". Trong kịch bản tệ nhất là suy thoái kinh tế, mức tổn thất được tính toán lên đến 82 nghìn tỷ điểm nhiều nước áp lệnh phong tỏa năm 2020, hàng loạt ngành nghề phải ngừng hoạt động, nhưng nhu cầu tiêu dùng cũng giảm, nên tác động của dịch bệnh lên chuỗi cung ứng toàn cầu chưa thể hiện rõ lệnh phong tỏa dần được dỡ bỏ, nhu cầu thế giới tăng vọt, nhưng chuỗi cung ứng vốn bị gián đoạn trong khủng hoảng không thể phục hồi tương xứng vì nhiều nguyên nhân, như thiếu lao động hay nguyên liệu chuyên gia dự đoán các vấn đề của chuỗi cung ứng "sẽ trở nên tồi tệ hơn trước khi tốt đẹp trở lại". Theo Tim Uy từ Moody's Analytics, đà hồi phục kinh tế chắc chắn sẽ bị ảnh hưởng vì đứt gãy chuỗi cung ứng. "Sản xuất toàn cầu sẽ bị cản trở vì giao hàng không kịp, chi phí và giá cả sẽ tăng, kết quả là tăng trưởng GDP toàn cầu sẽ bị kìm hãm", ông nhấn mạnh."Đại dịch đã cho thấy mức độ liên kết chặt chẽ trong chuỗi cung ứng toàn cầu và tính bất ổn, dễ bị tác động của nó", bình luận viên Holly Ellyatt từ CNBC đánh một báo cáo công bố hồi tháng 4 của Hội đồng Tình báo Quốc gia Mỹ, đại dịch Covid-19 đã làm trầm trọng thêm bất bình đẳng toàn cầu, đồng thời khoét sâu phân cực chính trị tại nhiều nước, đặc biệt là ở phương Tây."Đại dịch đã thúc đẩy chia rẽ đảng phái ở hàng loạt quốc gia, khi các bên tranh cãi lẫn nhau về cách ứng phó tốt nhất, đồng thời tìm kiếm 'con dê tế thần' để đổ lỗi vì không thể ngăn chặn đà lây lan của virus cũng như phản ứng còn chậm chạp", báo cáo có cứu của Hội đồng Quan hệ Đối ngoại châu Âu dựa trên cuộc thăm dò ý kiến ở 12 quốc gia Liên minh châu Âu EU cho thấy Covid-19 đã tạo ra tình trạng chia rẽ về địa lý, thế hệ và xã hội "độc hại" trên khắp châu lục, có thể định hình nền chính trị của lục địa này trong nhiều năm hiện dễ nhận thấy nhất là các cuộc biểu tình phản đối biện pháp phong tỏa và phong trào bài vaccine nổi lên tại một số nước châu Âu như Hà Lan, Pháp, Áo, Đức hay thức mà con người bị ảnh hưởng bởi đại dịch "đã tạo ra những quan điểm khác nhau ở nhiều quốc gia", Mark Leonard và Ivan Krastev, hai tác giả của nghiên cứu, nhận xét. "Những chia rẽ về sức khỏe cộng đồng, kinh tế và khái niệm về tự do có thể tồn tại lâu dài, nhưng chia rẽ lớn nhất nảy sinh chính là ở giữa các thế hệ. Những chia rẽ này có khả năng tạo ra một kỷ nguyên chính trị mới ở châu Âu".Mặt khác, cuộc khủng hoảng Covid-19 cũng như cuộc điều tra nguồn gốc virus còn tác động mạnh mẽ tới các mối quan hệ quốc tế, mà điển hình là quan hệ giữa Mỹ và Trung điểm Covid-19 mới bùng phát, Washington cáo buộc Bắc Kinh che đậy mức độ nghiêm trọng của đại dịch và không cung cấp đầy đủ thông tin, thậm chí đe dọa trừng phạt, buộc nước này bồi thường thiệt hại. Đáp lại, Trung Quốc cáo buộc Mỹ chính trị hóa cuộc khủng hoảng nhằm đánh lạc hướng dư luận khỏi cách xử lý đại dịch yếu kém của mình. Đến nay, mối quan hệ song phương vẫn chưa có dấu hiệu cải Quốc cũng phản ứng gay gắt với bất kỳ nước nào kêu gọi điều tra độc lập nguồn gốc Covid-19 và sẵn sàng tung đòn đáp trả. Australia là một "nạn nhân" như quyền Trung Quốc đã áp hàng loạt lệnh trừng phạt thương mại chưa từng có tiền lệ, ngăn thông quan nhiều mặt hàng xuất khẩu trọng yếu của Australia. Với hành động này, giới chuyên gia đánh giá Trung Quốc dường như muốn gửi thông điệp cảnh báo tới các nước khác về cân nhắc thiệt hơn trong quan hệ với Bắc vậy, một cuộc điều tra nguồn gốc Covid-19 của WHO vẫn được tiến hành tại Vũ Hán. Hồi tháng hai, sau 4 tuần điều tra, WHO công bố báo cáo nhưng không xác định được rõ ràng nguồn gốc của Covid-19. Báo cáo cho rằng virus có thể truyền sang người từ động vật, cần nghiên cứu thêm liệu nó có lây lan qua thực phẩm đông lạnh hay không, và khả năng nCoV rò rỉ từ phòng thí nghiệm "cực kỳ khó xảy ra".Kết luận này không làm thỏa mãn những người hoài nghi, đồng thời câu trả lời của WHO về "virus bắt nguồn từ đâu" cũng thiếu rõ ràng. Những sai sót được tiết lộ sau đó như cách thành lập đội điều tra chưa hợp lý hay quyền tiếp cận dữ liệu hạn chế của các nhà khoa học trong nhóm điều tra WHO càng làm dấy lên nghi ngờ về kết sau đó ra quyết định mở cuộc điều tra mới. Đây được cho là "cơ hội cuối cùng" để tìm ra nguồn gốc nCoV, song họ lại vấp phải trở ngại cũ chính phủ Trung Quốc. Nếu không có sự chấp thuận của Bắc Kinh, cuộc truy tìm nguồn gốc Covid-19 có thể khó tìm ra lời giải cuối. Hành trình tìm nguồn gốc nCoV. Video WSJ. Covid-19 còn tác động nặng nề tới sức khỏe tâm thần của người dân toàn thế giới. Theo một nghiên cứu của các nhà khoa học Australia và Mỹ, năm 2020 chứng kiến số trường hợp mắc rối loạn sức khỏe tâm thần tăng đáng kể, với khoảng 160 triệu ca trên toàn thế cứu cho thấy toàn cầu ghi nhận "thêm 53 triệu trường hợp mắc chứng rối loạn trầm cảm nặng và 76 triệu trường hợp rối loạn lo âu" vào năm ngoái, tăng hơn một phần tư, mà nguyên nhân là do đại lo mắc Covid-19 là yếu tố gây ảnh hưởng lớn nhất tới sức khỏe tâm thần, song không phải thứ duy nhất. Những hạn chế xã hội, gánh nặng tài chính, quá tải công việc, thông tin sai lệch hay nỗi thất vọng và buồn chán vì dịch cũng gây ra căng thẳng ảnh hưởng đến tâm tin Covid-19 bắt nguồn từ Vũ Hán, Trung Quốc, còn khiến tâm lý thù ghét, bài xích người gốc Á trỗi dậy ở châu Âu và Mỹ. Hàng nghìn vụ bạo lực liên quan đến thù hằn chủng tộc đã được ghi nhận. Nhiều người tin rằng đây là hậu quả từ quan điểm chống nhập cư của cựu tổng thống Donald Trump cùng việc ông miêu tả nCoV là "virus Trung Quốc", "virus Vũ Hán", hay Covid-19 là "dịch Trung Quốc".Theo Trung tâm Nghiên cứu về Hận thù và Chủ nghĩa cực đoan tại Đại học bang California, San Bernardino, tội ác thù ghét nhằm vào người Mỹ gốc Á năm 2020 đã tăng 149% so với năm bài phát biểu đánh dấu một năm đại dịch Covid-19 tấn công Mỹ, Tổng thống Joe Biden thừa nhận rằng các hành vi bạo lực nhằm vào người Mỹ gốc Á là "sai trái, không phải bản chất của người Mỹ và cần phải dừng lại".Tổ chức Stop AAPI Hate hồi tháng 8 công bố báo cáo cho thấy tình trạng thù ghét nhắm vào người gốc Á không giảm bớt ở Mỹ, với vụ tấn công bài Á năm 2020 và vụ năm 2021. Tương lai khó lường Dù thế giới đã hứng chịu nhiều đau thương trong hai năm qua, hiểm họa đại dịch vẫn chưa chấm dứt. Một số quốc gia phải đảo ngược quyết định tái mở cửa do những biến chủng mới và tâm lý chủ quan khiến Covid-19 bùng phát trở lại. Tháng 11, loạt nước châu Âu áp đặt hàng loạt lệnh hạn chế với người chưa tiêm chủng, khởi đầu ở Áo và sau đó Đức, Italy. Với biến chủng Omicron vừa xuất hiện, các nước một lần nữa dò dẫm điều chỉnh cách thức ứng phó phù hợp nhất trong khả năng quốc gia, nhất là khi các lệnh phong tỏa hai năm qua đã bào mòn nguồn lực xã hội và nền kinh tế toàn cầu. Không như Trung Quốc tiếp tục trung thành với chiến lược "không Covid", phương Tây coi tái phong tỏa chỉ là giải pháp tình thế và tạo động lực kéo tỷ lệ tiêm chủng đến mức an toàn để tiếp tục mở cửa. Chương trình tiêm vaccine mũi tăng cường cũng được đẩy mạnh ở nhóm nước có điều kiện tiếp cận vaccine như châu Âu, Mỹ hay Israel. Giới hoạch định chính sách cùng các nhà khoa học cảnh báo Covid-19 tiếp tục làm thế giới đau đầu trong năm 2022 và xa hơn nữa, cho đến thời điểm miễn dịch toàn cầu đủ lớn để nó trở thành bệnh đặc hữu. "Đa số chuyên gia bệnh truyền nhiễm nhiều tháng qua đã nhận định nCoV sẽ tồn tại lâu dài. Con cháu của con cháu chúng ta sẽ tiếp tục nhiễm", Paul Hunter, chuyên gia y tại Đại học Đông Anglia của Anh, đánh giá. Tuy nhiên, giới khoa học tin đến một ngày, Covid-19 sẽ không còn là đại dịch khi số ca nhiễm không vượt tầm kiểm soát và khiến hệ thống y tế bị quá tải. "Đến một lúc nào đó, mọi người sẽ không còn gọi nó là đại dịch vì tác động của nó đã suy yếu hoặc chúng ta đã quen với nó" Alex Cook, phó giáo sư tại Trường Y tế Công cộng Saw Swee Hock thuộc Đại học Quốc gia Singapore NUS, nói với VnExpress."Không có định nghĩa khoa học nào về thời điểm Covid-19 chuyển từ đại dịch sang bệnh đặc hữu. Các quốc gia khác nhau có thể sẽ có những cách khác nhau để nói rằng họ không còn xem Covid-19 là đại dịch". Giới quan sát cho rằng rất khó có thể dự đoán chính xác Covid-19 sẽ diễn tiến thế nào trong tương lai, bởi nCoV vẫn tiềm ẩn những biến số khi liên tục đột biến trong quá trình lây lan. Các nhà khoa học toàn cầu vẫn đang nỗ lực tìm hiểu về mức độ lây lan và độc lực của Omicron, nhưng những dữ liệu sơ bộ từ Nam Phi cho thấy biến chủng này có thể ít nghiêm trọng hơn Delta. Giới chuyên gia tin rằng sẽ là "thảm họa" nếu thế giới xuất hiện một biến thể có khả năng vô hiệu hóa hoàn toàn các loại vaccine hiện nay, nhưng nhận định khả năng này rất khó xảy ra. Họ tin rằng vaccine vẫn là chìa khóa của thế giới trong nỗ lực thoát đại dịch. "Đại dịch sẽ kết thúc khi chúng ta có đủ độ phủ vaccine. Tôi không nghĩ chúng ta còn con đường nào khác", Benjamin Neuman, giáo sư sinh học kiêm nhà virus học trưởng của Tổ hợp Nghiên cứu Sức khỏe toàn cầu GHRC tại Đại học Texas A&M, nhận định. Giáo sư Neuman thêm rằng tiêm chủng cho 70-100% dân số thế giới, bất kể độ tuổi, là tỷ lệ cần thiết để giúp thoát khỏi đại dịch. "Điều tương tự từng xảy ra với bệnh đậu mùa và bệnh bại liệt. Nhưng đây sẽ là một thách thức", ông nói. Gần 55% dân số thế giới đã tiêm ít nhất một mũi vaccine Covid-19, đồng nghĩa gần một nửa dân số toàn cầu chưa được bảo vệ. Trong khi một số nước giàu đã tiêm cho hơn 90% dân số, chỉ hơn 6% người dân ở những nước có thu nhập thấp được tiêm chủng ít nhất một liều. "Chúng ta đừng bắt đầu nói về kết thúc của Covid-19 cho tới khi vaccine được cung cấp đủ cho tất cả những ai sẵn sàng tiêm", David Dowdy, nhà dịch tễ học về bệnh truyền nhiễm tại Trường Y tế Công cộng Johns Hopkins Bloomberg, nói tháng trước. "Vaccine ngày càng trở thành công cụ tốt nhất của chúng ta và vẫn sẽ như vậy". Tuy nhiên, ngay cả khi thế giới đạt đủ độ phủ vaccine để thoát tình trạng đại dịch, mọi người có thể vẫn cần tiêm liều nhắc lại định kỳ để duy trì khả năng bảo vệ trước virus, theo các chuyên gia. "Một đại dịch chưa từng có đã khiến chúng ta nhận ra những rủi ro khi có một thế giới kết nối hơn. Nhưng quay trở lại một thế giới tiền toàn cầu hóa là điều không thể", Lucio Blanco Pitlo III, chuyên gia tại Tổ chức Con đường Tiến bộ châu Á - Thái Bình Dương tại Philippines, chia sẻ. Chuyên gia Pitlo III cho rằng điều này khiến thế giới phải tập trung tăng cường các biện pháp cảnh báo sớm và phòng ngừa, để ngăn chặn nguy cơ lây lan của các bệnh truyền nhiễm mới. Ông nói thêm nâng cấp cơ sở hạ tầng y tế công cộng cũng là một trong những việc quan trọng để giúp các nước giảm thiểu tổn thương trước nguy cơ bùng phát dịch trong tương lai, đặc biệt ở những nước đang phát triển. Phó giáo sư Cook nhận định đại dịch Covid-19 đã mang tới cho thế giới một bài học lớn là phải hành động nhanh trước các mối đe dọa. "Quá nhiều quốc gia trì hoãn phản ứng và kết quả là phải hứng chịu các biện pháp phong tỏa hơn mức cần thiết", ông nói. Khi những ca "viêm phổi lạ" được báo tin với giáo sư Lipkin vào đêm giao thừa năm 2019, ít ai có thể hình dung virus sẽ nhanh chóng làm bùng phát một đại dịch toàn cầu, khiến thế giới lao đao và thay đổi nhiều như vậy. "Covid-19 đã khiến chúng ta bất ngờ ngay từ khi nó xuất hiện. Tôi hy vọng rằng nó sẽ kết thúc, nhưng không tự tin lắm vào điều đó", giáo sư Lipkin nói. "Nó kết thúc như thế nào và liệu một đại dịch như vậy có xảy ra nữa hay không, tất cả phụ thuộc vào cách ứng phó của chúng ta". Ngọc Anh - Danh Tâm - Tiến Hoàng Môn Văn Lớp 11 I. ĐỌC – HIỂU 3,0 điểm Đọc đoạn trích Thế giới hiện đại phát triển quá nhanh khiến cho nhiều người cảm thấy chỉ một khắc chậm chân đã tụt Question Môn Văn Lớp 11 Giúp em bài này với ạ I. ĐỌC – HIỂU 3,0 điểm Đọc đoạn trích Thế giới hiện đại phát triển quá nhanh khiến cho nhiều người cảm thấy chỉ một khắc chậm chân đã tụt lại phía sau quá xa. Lấy việc đó làm động lực để bước tiếp hay chịu thua và bị trói buộc vào cuộc sống nhàm chán, đơn điệu hàng ngày là sự lựa chọn của mỗi người; thế giới vĩnh viễn sẽ không bao giờ thu nhỏ lại, vậy nên tầm nhìn của bạn cần phải to lớn hơn. Bạn có biết rằng, từ “Sekai” trong tiếng Nhật có nghĩa là “thế giới”; nhưng trong đó bản thân từ “kai” lại vừa có nghĩa là “giải” – “phát triển”; lại có nghĩa là “đáng giá”? Điều đó có nghĩa là, mỗi cuộc dấn thân, mỗi chuyến phiêu lưu tìm hiểu thế giới này đều là những trải nghiệm cần thiết và quý báu. Thay vì dính chặt lấy cuộc sống thường nhật tẻ nhạt và nhàm chán, nhiều bạn trẻ giờ đây đã chọn cách mạnh mẽ thể hiện bản thân mình, trải nghiệm cuộc sống bằng những chuyến đi xa, những cuộc gặp gỡ, kết giao thú vị. Có thể nói, đó chính là những người trẻ chọn việc không ngừng phấn đấu và tiến về phía trước, và sẽ là những người thu vào trong tầm mắt phần rộng lớn và tươi đẹp nhất của thế giới này …. Vậy nên hãy luôn khát khao bám đuổi theo cái tôi mới mẻ và bứt phá; mạnh dạn chấp nhận những thử thách của cuộc sống để bước chân ra khỏi vùng an toàn của chính mình, bạn nhé ! Bởi cuộc đời chỉ thực sự trở nên hoàn hảo khi tầm nhìn của bạn rộng mở hơn. cuoc-doi-rong-lon-ban-se-nhan-lai-dieu-gi. Thực hiện các yêu cầu sau Câu 1. Xác định phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong đoạn trích. Câu 2 Anh chị nêu ít nhất hai hình thức trải nghiệm cuộc sống dành cho tuổi trẻ học đường ? Câu 3. Nêu tác dụng của việc giải thích từ “Sekai” trong tiếng Nhật của văn bản ? Câu 4. Anh/ chị có đồng tình với quan điểm “thế giới vĩnh viễn sẽ không bao giờ thu nhỏ lại, vậy nên tầm nhìn của bạn cần phải to lớn hơn” được nêu trong văn bản hay không ? Vì sao ? No copy trên mạng nha. Em xin cảm ơn mọi người ạ in progress 0 Văn 2 năm 2021-09-03T200501+0000 2021-09-03T200501+0000 2 Answers 0 Năm 1917, Cách mạng Xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga bùng nổ và thắng lợi đã khép lại trang lịch sử cận đại thế giới, mở ra thời kỳ lịch sử thế giới hiện đại. Cách mạng Tháng mười đã lật đổ chủ nghĩa tư bản Nga, đưa giai cấp công nhân Nga lên cầm quyền, thiết lập Nhà nước Xôviết và năm 1922 thành lập Liên bang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xôviết Liên Xô đi lên xây dựng chủ nghĩa xã lục1 Lịch sử thế giới thời kỳ chủ nghĩa xã hội phát Chủ nghĩa xã hội ra Thế giới giai đoạn chiến tranh thế giới I & Hình thành trật tự thế giới mới – hai cực Ianta2 Chủ nghĩa tư bản bước sang giai đoạn Nhìn lại các giai đoạn trước Giai đoạn sau 19453 Lịch sử thế giới sau khi hệ thống chủ nghĩa xã hội tan rã4 Lịch sử thế giới hiện đại trong các lĩnh vực Cách mạng khoa học kỹ thuậtLịch sử thế giới thời kỳ chủ nghĩa xã hội phát triểnChủ nghĩa xã hội ra đờiLiên Xô ra đời đã biến chủ nghĩa xã hội từ lý thuyết của các nhà kinh điển Mác-Lênin thành thực thể chính trị, kinh tế, quân sự hùng mạnh ở một đất nước rộng 1/6 quả địa cầu. Trở thành một lực lượng đối trọng với chủ nghĩa tư bản và lịch sử đấu tranh giữa chủ nghĩa xã hội với chủ nghĩa tư bản bắt đầu. Thời đại xuất hiện thêm một mâu thuẫn không kém phần gay gắt, mâu thuẫn giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản, xuất hiện một mối quan hệ quốc tế mới ảnh hưởng mạnh mẽ đến các quan hệ quốc tế hiện thời kỳ hiện đại, mâu thuẫn giữa hệ thống các nước thuộc địa châu Á, châu Phi với chủ nghĩa đế quốc ngày càng gay gắt vì chủ nghĩa đế quốc tăng cường khai thác thuộc địa để phục vụ cho Chiến tranh thế giới thứ nhất. Sau chiến tranh, chúng càng đẩy mạnh bóc lột để bù đắp cho sự thiệt hạị của chính mạng Tháng Mười Nga đã mở ra một giai đoạn mới cho phong trào giải phóng dân tộc thuộc địa. Liên Xô và Quốc tế Cộng sản đã quan tâm đến việc đào tạo cán bộ, đưa ánh sáng lý luận Mác-Lênin vào, giúp đỡ các tổ chức cách mạng thuộc địa ra đời, phát triển và trưởng thành. Liên Xô trở thành đồng minh vững chắc, tin cậy của phong trào giải phóng dân giới giai đoạn chiến tranh thế giới I & IIChiến tranh cũng đã thúc đẩy mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân và nhân dân lao động với giai cấp tư sản trong các nước tư bản ngày càng gay gắt. Chiến tranh đã giáng mọi tai họa trực tiếp lên đầu nhân dân và nhân dân lao động các nước tham chiến. Vì thế, trong và sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, một cao trào cách mạng dâng cao hầu khắp các nước Tây Âu những năm 1921-1924 rồi lại bùng lên những năm 1929-1933 do tai họa khủng khiếp từ cuộc khủng hoảng kinh tế mang chiến tranh, các nước chiến thắng đứng đầu là Anh, Pháp, Mỹ đã họp Hội nghị Vécxây năm 1919, sau đó là Hội nghị Oasintơn để thiết lập một trật tự thế giới mới gọi là trật tự Vécxây-Oasintơn. Trật tự này chứa đựng nhiều mâu thuẫn trong phe đế quốc. Mâu thuẫn giữa các nước chiến bại với các nước chiến thắng, mâu thuẫn giữa các nước chiến thắng với nhau, vì Anh, Pháp, Mỹ được nhiều quyền lợi, các nước khác như Italia, Nhật Bản… chịu thiệt thòi không thỏa mãn tham vọng khi phân chia thế giải quyết các vấn đề đối nội và đối ngoại Đức, Italia và Nhật Bản đã thiết lập chính quyền phát xít – một chính quyền độc tài, công khai công bố thi hành chính sách khủng bố và bành trướng xâm lược và phát động Chiến tranh thế giới thứ hai. Một lần nữa chiến tranh giữa các nước đế quốc lại dẫn nhân loại đến cuộc chém giết khủng khiếp đó là Chiến thế giới thứ hai năm 1939-1945. Chiến tranh kết thúc với sự thất bại và diệt vong của chủ nghĩa phát thành trật tự thế giới mới – hai cực IantaTháng 2-1945 khi mà chủ nghĩa phát xít chắc chắn đã thất bại, những người đứng đầu ba cường quốc Liên Xô, Anh, Mỹ là J. Stalin, Sớcsin, F. Rudơven đã hợp nhau ở Ianta Crưm, Liên Xô thiết lập nên một trật tự thế giới mới – trật tự thế giới hai cực Ianta. Một tổ chức quốc tế lớn nhất thế giới đã được thành lập để bảo đảm sự tồn tại của trật tự mới, bảo đảm hòa bình an ninh thế năm 1945, chủ nghĩa xã hội đã vượt khỏi phạm vi một nước trở thành hệ thống kinh tế chính trị thế giới đứng đầu là Liên Xô. Cũng sau Chiến tranh thế giới thứ hai Mỹ vươn lên thành siêu cường số một đứng đầu thế giới tư bản – đối trọng với thế giới xã hội chủ nghĩa. Mặt khác, Mỹ cùng đồng minh ra sức chống lại phong trào giải phóng dân tộc ở châu Á, châu Phi, Mỹ Latinh đang bùng lên mạnh vậy, trong trật tự thế giới hai cực Ianta có ba lực lượng đấu tranh với nhau trên vũ đài quốc tếLực lượng chủ nghĩa xã hội đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản,Phong trào giải phóng dân tộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc do Liên Xô đứng đầu,Chủ nghĩa tư bản chống chủ nghĩa xã hội và phong trào giải phóng dân tộc do Mỹ cầm phải kể đến phong trào công nhân và nhân dân lao động các nước tư bản đấu tranh đòi quyền dân sinh, dân quả phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc giành được thắng lợi to lớn. Từ những năm 40 đến những năm 60 của thế kỷ XX, cơn bão táp cách mạng lan từ châu Á đến châu Phi làm sụp đổ tan tành hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc. Hàng trăm quốc gia độc lập mới ra đời làm thay đổi bộ mặt lịch sử thế giới hiện đại, góp phần vào tiến trình lịch sử nhân từ những năm 80 đến những năm 90 của thế kỷ XX, chủ nghĩa xã hội thế giới lún sâu vào cuộc khủng hoảng toàn diện. Nhân cơ hội đó, những lực lượng đối lập với chủ nghĩa xã hội chống phá kịch liệt. Chủ nghĩa xã hội ở Đông Âu sụp đổ vào những năm 80 và đến năm 1991 đến lượt Liên Xô tan rã. Các nước xã hội chủ nghĩa xã hội còn lại ở châu Á để thoát khỏi khủng hoảng, đã phải ra sức đổi mới điều chỉnh, quay về với chính học thuyết Mác- Lênin về một chế độ xã hội chủ nghĩa kinh tế hàng hóa thị trường để tồn tại và phát nghĩa tư bản bước sang giai đoạn mớiChiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, chủ nghĩa tư bản bước sang một giai đoạn lại các giai đoạn trước 1945Có thể thấy được từ thế kỷ XI đến trước cuộc cách mạng tư sản Anh năm 1640 chủ nghĩa tư bản ra đời trong lòng xã hội phong kiến Tây năm 1640 đến năm 1870 là thời kỳ đấu tranh lật để chế độ phong kiến xác lập chủ nghĩa tư bản, thời kỳ bùng nổ các cuộc cách mạng chính trị và cách mạng kinh tế, thời kỳ chủ nghĩa tư bản tự do cạnh năm 1870 đến nay, chủ nghĩa tư bản chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. Trong giai đoạn này, từ năm 1870 đến năm 1945 là thời kỳ chủ nghĩa tư bản độc đoạn sau 1945Từ năm 1945 đến nay, chủ nghĩa tư bản chuyển sang giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước, tức là chủ nghĩa tư bản hiện đại. Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là sự kết hợp các công ty độc quyền với nhà nước để tạo nên sức mạnh tổng hợp của kinh tế với quyền lực chính trị nhằm đáp ứng với nhu cầu thực tế khách quan đặt ra sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Đó là phải có sức mạnh đối phó với chủ nghĩa xã hội, đàn áp phong trào giải phóng dân tộc đang dâng lên như vũ bão, để cạnh tranh với các đế quốc khác ngày càng quyết liệt khi hệ thống thuộc địa ngày một thu hẹp mạng khoa học – công nghệ hiện đại đã tạo ra một lực lượng sản xuất khổng lồ vượt quá tầm tư hữu tư nhân, các dự án chi phí lớn. Tất cả đều phải mượn bàn tay của nhà nước can thiệp. Nhà nước tư sản thời kỳ tự do cạnh tranh chỉ là kẻ bảo vệ tài sản, đóng vai trò trọng tài điều tiết xã hội thì bây giờ nhà nước cũng sở hữu tư liệu sản nhiên, sự sở hữu này vẫn là của các tập đoàn độc quyền tư nhân của tư bản dưới hình thức nhà nước mà thôi. Thời kỳ chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh, chính khách và nhà kinh doanh là hai con người khác nhau, thời chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước chính khách và tỉ phú có thể là một, tổng thống là tỉ phú, bộ trưởng là tỉ phú, nghị sĩ là tỉ phú, thủ tướng có thể là tỉ chung, nhà nước tư sản sau năm 1945 đã can thiệp điều tiết kinh tế để bảo đảm quyền lợi cho chủ nghĩa tư bản độc quyền. Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước không chỉ biểu hiện ở mỗi con người tỉ phú là nhà chính trị mà còn biểu hiện trong bộ máy nhà nước, trong bộ máy kinh tế ở mỗi nước tư bản. Nó không chỉ xuất hiện ở mỗi quốc gia mà còn trên bình diện quốc tế và các quan hệ chính trị, kinh tế trên toàn thế giới. Trước sau chủ nghĩa tư bản vẫn là một lực lượng quốc năm 1945, nhân loại sống trong thế giới hai cực Ianta. Đó là xét ở yếu tố đối lập và cân bằng về chính trị, quân sự giữa chủ nghĩa xã hội do Liên Xô đứng đầu và chủ nghĩa tư bản do Mỹ đứng đầu. Thực ra, trên bình diện kinh tế khi Tây Âu và Nhật Bản đã hàn gắn xong vết thương chiến tranh, phát triển kinh tế với tốc độ nhanh chóng, thần kỳ, nhất là vào những năm 60 của thế kỷ XX thì nền kinh tế tài chính thế giới đã có bốn trung tâm Liên Xô, Tây Âu, Nhật Bản và Mỹ. Mỹ mất độc quyền trung tâm kinh tế tài chính duy nhất của thế giới tư bản. Mối quan hệ giữa cuộc chạy đua giữa các siêu cường và bốn trung tâm kinh tế tài chính đã chi phối toàn bộ các mối quan hệ kinh tế, chính trị thế giới trong suốt thời kỳ dài bốn thập sử thế giới sau khi hệ thống chủ nghĩa xã hội tan rãSau khi Liên Xô và các nước chủ nghĩa xã hội Đông Âu tan rã, trật tự thế giới hai cực Ianta sụp đổ, thế giới vẫn tồn tại ba trung tâm kinh tế tài chính lớn nhất, nhưng về quân sự, chính trị gần như mất cân bằng trong mối quan hệ quốc tế. Với tổng sản phẩm thu nhập quốc dân 1 vạn tỉ đô la/năm, với sức mạnh quân sự to lớn, Mỹ tự cho mình là siêu cường duy nhất có thể thực hiện chính sách đối ngoại buộc thế giới và các đồng minh phải khuất phục, buộc tất cả các nguồn lợi phải chảy về quyền Mỹ đã sử dụng vũ lực tấn công những chế độ mà Mỹ muốn tiêu diệt, uy hiếp và đe dọa các nước khác. Thế giới ngày nay đang đứng trước nguy cơ to lớn; thứ nhất là những cuộc chiến tranh do Mỹ đã và sẽ tiến hành chống lại các quốc gia có chủ quyền; thứ hai là nguy cơ khủng bố quốc tế. Hai thảm họa này phần nhiều bắt nguồn từ chính sách đối ngoại của Mỹ, một chính sách thiên vị và vũ sử thế giới hiện đại trong các lĩnh vực khácSong, lịch sử thế giới hiện đại không chỉ là những trang của áp bức, bóc lột, của đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc, của chiến tranh xâm lược và chống xâm lược mà còn là những trang lịch sử sáng tạo và phát triển của trí thức, của nhân dân lao động để sáng tạo nên nền văn hóa thế giới. Sự lao động và sáng tạo đã tạo nên những kỳ tích trong những bước phát triển của khoa học – kỹ thuật mà vĩ đại nhất là cuộc cách mạng khoa học – công nghệ hiện mạng khoa học kỹ thuậtCuộc cách mạng này đang diễn ra và ngày càng sâu rộng trên tất cả các lĩnh vực nhưLý thuyết của các ngành khoa học cơ bảnNhững ngành khoa học mới ra đời vũ trụ, du lịch vũ trụ, điều khiển học,Tìm ra những nguồn năng lượng mới hạt nhân, nguyên tử, sức gió, năng lượng mặt trời,Sáng tạo ra những chất mới không có trong tự nhiên vừa nhẹ vừa có độ bền vững cao polyme, cáp quang,Chế tạo ra những công cụ mới có hiệu quả lao động thần kỳ và huyền diệu vi tính, robot làm được nhiều chức năng.Cách mạng khoa học – công nghệ cũng diễn ra trong viễn thông, sinh học, giao thông vận tải, nông nghiệp đã mang lại nhiều thành tựu to lớn, làm biến đổi đời sống kinh tế – xã hội loài người, đã làm biến đổi công nghệ quy trình sản xuất, tạo ra một lực lượng sản xuất đồ sộ, hiệu quả, năng suất và chính mạng khoa học – công nghệ hiện đại đã liên kết toàn thế giới thành một thị trường thống nhất, tác động to lớn đến đời sống xã hội con người về tinh thần và vật chất. Cuộc cách mạng này đã đưa loài người sang nền văn minh thứ ba văn minh tin mạng khoa học – công nghệ đã mở ra một xu hướng mới trong quan hệ quốc tế về mở rộng hợp tác khoa học, kinh tế, mở rộng khả năng đối thoại trong quan hệ quốc tế thay cho một thời kỳ dài của chiến tranh lạnh, hoặc chiến tranh nóng để giải quyết những bất đồng giữa các quốc nhiên nếu con người sử dụng không đúng mục đích những thành tựu của cách mạng khoa học – công nghệ sẽ mang lại hậu quả khôn lường với những vũ khí giết người hàng loạt, thậm chí có thể đe dọa cả chính sự tồn tại của mái nhà chung là trái đất, khí hậu, môi trường. Và đó có thể là dấu chấm hết cho lịch sử nhân loại Câu 94. Trình bày các xu thế phát triển của thế giới hiện nay. Qua đó, hãy cho biết thế nào là những thời cơ và thách thức đối với các dân tộc ? Hướng dẫn làm bài 1. Các xu thế phát triển của thế giới hiện nay Sau sự tan rã của trật tự thế giới hai cực Ianta 1991, lịch sử thế giới hiện đại đã bước sang một giai đOạn phát triển mới, thường được gọi là giai đoạn sau Chiến tranh lạnh với các xu thế phát triển. – Một là, sau Chiến tranh lạnh hầu như tất cả các quốc gia đều ra sức điều chỉnh chiến lược phát triển lấy kinh tế làm trọng điểm, xây dựng sức mạnh tổng hợp quốc gia thay thế cho chạy đua vũ trang đã trở thành hình thức chủ yếu trong cuộc cạnh tranh giữa các cường quốc. – Hai là sự điều chỉnh quan hệ giữa các nước lớn theo chiều hướng đối thoại, thỏa hiệp, tránh xung đột trực tiếp nhằm tạo nên một môi trường quốc tế thuận lợi, giúp họ vươn lên mạnh mẽ, xác lập một vị trí ưu thế trong trật tự thế giới mới. Mối quan hệ gữa các nước lớn ngày nay mang tính hai mặt, nổi bật là mâu thuẫn và hài hòa, cạnh tranh và hợp tác, tiếp xúc và kiềm chế. – Ba là, tuy hòa bình và ổn định là xu thế chủ đạo của tình hình thế giới nhưng ở nhiều khu vực vẫn diễn ra nội chiến và xung đột, trầm trọng hơn ở nhiều nơi bộc lộ chủ nghĩa ly khai và chủ nghĩa khủng bố. – Bốn là, từ thập kỷ 90 cuả thế kỷ XX, thế giới đã và đang chứng kiến xu thế toàn cầu hóa diễn ra ngày càng mạnh mẽ… 2. Các xu thế phát triển trên vừa là thời cơ, vừa là thách thức của các dân tộc. – Thời cơ là tình hình hiện nay đã tạo ra những điều kiện thuận lợi, những xu thế khách quan để các dân tộc cùng nhau xây dựng một thế giới hòa bình, ổn định hợp tác, phát triển, bảo đảm những quyền cơ bản của mỗi dân tộc và con người. – Thách thức là do xu thế toàn cầu hóa diễn ra mạnh mẽ, nếu các dân tộc không có khả năng phát triển thích ứng sẽ bị tụt hậu và lệ thuộc các nước phát triển đang muốn vươn lên mạnh mẽ để xây dựng trật tự thế giới đa cực do họ chi phối; nguy cơ xung đột khu vực đặc biệt là chủ nghĩa khủng bố đang đe dọa các dân tộc trên thế giới. Kính thưa Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ,Kính thưa Giám đốc Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh Nguyễn Xuân Thắng,Kính thưa Đại sứ Úc tại Việt Nam, Craig Chittick,Kính thưa Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam, Giáo sư Nguyễn Quang Thuận,Kính thưa các vị khách quý,Xin chào!Tôi rất vinh dự và tự hào được cùng Giáo sư Nguyễn Quang Thuận chào mừng các quý vị đại biểu đến dự hội thảo “Mô hình tăng trưởng kinh tế Việt Nam giai đoạn 2021-30, và tầm nhìn đến 2045”. Tôi xin nhấn mạnh tầm quan trọng mang tính chiến lược của cuộc thảo luận hôm nay, bởi nó sẽ giúp định hình con đường phát triển của Việt Nam trong những thập kỷ tới. Tôi chân thành cảm ơn tất cả các quý vị đại biểu, và đặc biệt cảm ơn Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ đã thu xếp lịch trình rất bận rộn của mình để tham dự sự kiện quan trọng Giáo sư Nguyễn Quang Thuận đã đề cập, hội thảo hôm nay nhằm thảo luận về những phát hiện mới trong một nghiên cứu chung giữa bốn đơn vị, bao gồm Tổ Tư vấn Kinh tế của Thủ tướng, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh và Ngân hàng Thế giới. Tôi xin cảm ơn sự chỉ đạo mạnh mẽ của Tiến sĩ Vũ Viết Ngoạn, Tổ trưởng Tổ Tư vấn kinh tế của Thủ tướng, và cảm ơn sự hợp tác chặt chẽ giữa các nhóm trong suốt quá trình nghiên cứu chung của chúng ta. Chúng tôi cũng cảm ơn sự hỗ trợ tài chính hào phóng của Chính phủ Úc trong khuôn khổ Đối tác chiến lược giữa Australia và Nhóm Ngân hàng Thế giới - Giai đoạn 2, là tiền đề quan trọng dẫn đến buổi hội thảo hôm thưa Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ, Kính thưa quý vị đại biểu,Tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ có lẽ là điều kiện tiên quyết quan trọng nhất để phát triển thành công. Kể từ khi công cuộc Đổi Mới được bắt đầu vào cuối những năm 1980, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu nổi bật. Mức tăng trưởng kinh tế đạt gần 7%/năm. Nhờ đó, thu nhập bình quân đầu người đã tăng gần gấp 5 lần. Việt Nam ngày nay đã vươn lên trở thành một nền kinh tế thu nhập trung bình thấp và là cường quốc xuất khẩu. Tăng trưởng cũng có tính bao trùm, với tỷ lệ nghèo giảm xuống dưới 7%, so với mức hơn 60% vào cuối những năm hành trình Việt Nam trở thành một nền kinh tế có thu nhập cao chỉ mới bắt đầu. Và những thành tựu trong 30 năm qua không đảm bảo cho sự thành công trong tương lai. Tác động của những cải cách thể chế và cấu trúc giai đoạn đầu dường như đã tới hạn. Việc điều chỉnh và thay đổi mô hình tăng trưởng mang tính cấp thiết nếu Việt Nam mong muốn trở thành nước có thu nhập trung bình cao thành công vào năm 2030 và là nước có thu nhập cao vào năm 2045. Để đạt được khát vọng này, nền kinh tế cần hoạt động hiệu quả và bền vững trong suốt hơn 25 năm tới, tăng trưởng trung bình ít nhất phải bằng mức trong 30 năm qua. Và mục tiêu này phải đạt được trong một bối cảnh đầy thách thức. Trong nước, Việt Nam đang phải đối mặt với những trở lực mang tính cấu trúc đang gia tăng, bao gồm dân số già hóa nhanh, tác động của tích lũy nhân tố giảm, cũng như chi phí môi trường ngày càng lớn trong quá trình phát triển. Trên thế giới, Việt Nam sẽ phải lựa chọn hướng đi trong một bối cảnh đang thay đổi, những chuyển đổi về mô hình thương mại và đầu tư toàn cầu sẽ ít thuận lợi hơn cho sự tăng trưởng dựa vào xuất khẩu và cuộc cách mạng công nghiệp vừa là cơ hội đang được định hình, vừa tạo ra những rủi ro vậy cần thực hiện những điều chỉnh và – nếu cần thiết – những thay đổi nào? Mô hình tăng trưởng dựa vào xuất khẩu với khu vực FDI mạnh mẽ có còn phù hợp không? Việt Nam sẽ tiếp tục đầu tư vào những nhân tố quan trọng đối với tăng trưởng bền vững – bao gồm cơ sở hạ tầng và nguồn nhân lực – như thế nào? Làm thế nào để thúc đẩy sự phát triển của khu vực tư nhân trong nước để khu vực này có thể nhân tố chủ lực dẫn dắt việc đổi mới sáng tạo trong kỷ nguyên của Cách mạng công nghiệp và tăng trưởng? Làm thế nào để có thể tiếp tục thúc đẩy cải cách thể chế thị trường để hỗ trợ tăng trưởng mạnh mẽ và bền vững hơn?Đưa ra câu trả lời hợp lý cho những câu hỏi này sẽ giúp chúng ta xác định được các động lực tăng trưởng, và chương trình cải cách thực sự trong những thập kỷ tới sẽ thúc đẩy tiềm năng của Việt Nam và mở rộng giới hạn phát triển của đất thưa Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ, Kính thưa quý vị đại biểu, Ngoài những câu hỏi quan trọng cần được trả lời trong cuộc thảo luận của chúng ta hôm nay, tôi muốn nhấn mạnh hai nhân tố quan trọng quyết định thành công trong tương lai của Việt Nam, dù chúng ta chọn mô hình tăng trưởng nào đi nhất là CHẤT LƯỢNG. Các mô phỏng ban đầu cho thấy Việt Nam cần chuyển sang tăng trưởng dựa vào tăng năng suất, trong đó tốc độ tăng năng suất trung bình cần phải tăng mạnh, nhưng thành tựu này cho đến nay cũng chỉ một số ít nước đã đạt được. Để tăng năng suất, cần cải thiện mạnh mẽ tất cả các khía cạnh CHẤT LƯỢNG của tăng trưởng, bao gồm phân bổ nguồn lực hiệu quả, nâng cao chất lượng vốn nhân lực, tăng đầu tư có hiệu quả vào cơ sở hạ tầng và cung cấp dịch vụ, cũng như đổi mới và sáng tạo, để tất cả đều mang lại kết quả tăng năng suất. Đối với khía cạnh cuối cùng, kinh nghiệm quốc tế cho thấy để đổi mới sáng tạo hiệu quả cần có một chương trình cải cách cởi mở và có lộ trình hợp lý, và các quốc gia ở giai đoạn phát triển khác nhau có những ưu tiên khác nhau trong đổi mới sáng tạo. Tôi tin tưởng rằng Việt Nam vẫn có thể hưởng lợi lớn từ chuyển giao và áp dụng công nghệ, và doanh nghiệp cần phải được đặt tại vị trí trung tâm của nghị trình đổi mới sáng tạo. Đối với Việt Nam hiện nay, tạo ra một môi trường kinh doanh thuận lợi, thúc đẩy đổi mới, sáng tạo ở cấp doanh nghiệp sẽ mang lại hiệu quả cao hơn những biện pháp được điều khiển bởi cung phổ biến như tăng chi tiêu cho nghiên cứu và phát triển hoặc tập trung vào các hoạt động phát minh, sáng hai là THỰC HIỆN. Những thách thức trong quá trình phát triển hiện nay của Việt Nam phức tạp hơn nhiều so với 30 năm qua. Một phần của sự phức tạp này bắt nguồn từ thực tế là các vấn đề phát triển đang ngày càng trở nên đa ngành. Giảm nghèo không chỉ đòi hỏi cải thiện đời sống kinh tế, mà còn cải thiện các dịch vụ cơ bản và phát triển nguồn vốn nhân lực. Tương tự như vậy, phát triển vốn nhân lực không chỉ là về giáo dục, mà còn là về chăm sóc y tế trải suốt vòng đời của người dân cũng như chăm sóc người cao tuổi và bảo trợ xã hội. Bản chất của phát triển liên vùng và phát triển khu vực tư nhân cũng mang tính đa ngành. Để giải quyết các vấn đề phức tạp này, cần có sự lãnh đạo và quyết tâm mạnh mẽ. Đồng thời, cần có hệ thống quản trị hiệu quả và phát triển, đảm bảo sự phối hợp nhịp nhàng cả theo chiều ngang giữa các bộ ngành trong chính phủ và theo chiều dọc giữa các cấp chính quyền từ trung ương đến địa phương. Tiếp tục cải cách thể chế mạnh mẽ để giải quyết những điểm yếu cơ bản liên quan đến cách thức chính phủ cung cấp dịch vụ cho doanh nghiệp và người dân sẽ là chìa khóa để thực hiện thành công các chiến lược chúng ta thảo luận hôm thưa Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ, Kính thưa quý vị đại biểu, Những thành tựu mà Việt Nam đạt được đến hôm nay là kết quả dễ nhận thấy từ công cuộc Đổi mới đầu tiên vào năm 1986, cũng như một loạt những biện pháp cải cách thị trường mạnh mẽ tiếp theo đó. Ngày nay, Việt Nam cần thêm một cuộc Đổi mới nữa để đạt được khát vọng trở thành quốc gia hiện đại, có thu nhập cao vào năm 2045. Sống trong kỷ nguyên của những công nghệ đột phá, đang mang lại cả thách thức cũng như cơ hội, tôi muốn gọi đó là “Đổi mới Ngân hàng Thế giới đã vinh dự đồng hành cùng Việt Nam trong quá trình phát triển nổi bật của đất nước suốt 30 năm qua. Nhưng sự phát triển sẽ không dừng lại ở bất kỳ mức thu nhập ngẫu nhiên nào - mỗi quốc gia đều là một quốc gia đang phát triển. Chúng tôi rất vui mừng được tiếp tục mối quan hệ đối tác mạnh mẽ và đáng tin cậy với Việt Nam trong những năm tới, thông qua sự hỗ trợ toàn diện, bao gồm cả tri ​​thức và nguồn lực tài chính, để giải quyết các thách thức phát triển đang ngày càng khó khăn hơn. Thành công của Việt Nam cũng là thành công của chúng tôi, và cùng nhau, chúng ta có thể làm được điều tin tưởng chúng ta có những vấn đề hay và phù hợp trong chương trình hội thảo sáng nay. Kính chúc các quý vị đại biểu có một cuộc hội thảo thành công tốt đẹp. Xin cảm ơn!

thế giới hiện đại phát triển quá nhanh